Thứ Năm, 25 tháng 8, 2022

Thanh Hiên Thi Tập (Nguyễn Du) - Bài 69 Đến 72

 


THANH HIÊN THI TẬP (Nguyễn Du)
Thầy Dương Anh Sơn 

BƯỚC ĐẦU RA LÀM QUAN NHÀ NGUYỄN Ở BẮC HÀ (1802-1804) 
(Bài 69 đến bài 72) 

Bài 69 

ĐỒNG LƯ LỘ THƯỢNG DAO KIẾN SÀI SƠN                      同 廬 路 上 遙 見 柴 山 

Sài Sơn sơn thượng đa phù vân,                               山山上多浮雲 
Sài Sơn sơn hạ thạch lân lân.                                    柴山山下石磷磷 
Đồng Lư lộ thượng tây kiều thủ,                              廬路上西翹首 
Tú sắc thương nhiên lai chiếu nhân.                         秀色蒼然來照人 
Lịch lịch lâu đài thiên ngoại kiến,                            歷歷樓臺天外見 
Vi vi chung cổ nguyệt trung văn.                              微微鐘古月中聞 
Thanh sam tẩu biến hồng trần lộ,                             青衫走編紅塵路 
Viên hạc hà tòng nhận cựu lân?                                猿鶴何從認舊鄰 
Nguyễn Du                                                               阮 攸 

Dịch nghĩa: 
Ở trên ngọn núi Sài Sơn có nhiều đám mây nổi. Bên dưới núi Sài, nước chảy luồng qua các khe đá. Trên đường Đồng Lư ngẩng nhìn về phía Tây, màu xanh tươi đẹp của núi rừng chiếu soi vào người (c.1-4). Nhìn phía trời ngoài xa nhìn thấy rõ ràng các lầu gác. Giữa ánh trắng, nghe tiếng chuông trống gõ nhẹ nhàng. Mặc chiếc áo màu xanh đi khắp con đường bụi hồng. Làm thế nào để vượn và hạc nhận ra được người hàng xóm cũ (c.5-8). 

Tạm chuyển lục bát: 

TRÊN ĐƯỜNG ĐỒNG LƯ NHÌN XA THẤY SÀI SƠN 

Sài Sơn trên núi mây vương, 
 Sài Sơn bên dưới nước tuôn đá bày. 
 Đường Đồng Lư ngẩng nhìn tây, 
Màu xanh xinh đẹp chiếu ngay vào người. 
Gác lầu trông rõ ngời ngời. 
Giữa trăng chuông trống vẳng lơi nhẹ nhàng. 
Áo xanh bụi đỏ khắp đàng, 
Làm sao vượn hạc nhận hàng xóm xưa? 

Chú thích: 
**Đây là bài thơ được Nguyễn Du làm ra khi đang giữ chức Tri Phủ Thường Tín, nhận lệnh triều đình lên trấn Nam Quan tiếp đón sứ nhà Thanh (TQ) (1803) mời qua Đại Việt để phong vương cho Nguyễn Ánh Gia Long. 
- Sài Sơn 柴山: tức núi Thầy ở Sơn Tây. 
- lân lân 磷磷: nước chảy qua các khe đá. 
- kiều thủ 翹首: ngẩng đầu nhìn lên. 
- tú sắc 秀色: màu sắc xinh xắn, đẹp đẽ. 
- lịch lịch 歷歷: xem C.T bài 68. 
- vi vi 微微: nhẹ nhàng, mưa nhỏ. 
- thanh sam 青衫: chiếc áo màu xanh của các quan lại triều Nguyễn. 
- biến 編: khắp cả, khắp chốn. 

Bài 70 

ĐỒNG LUNG GIANG                                           同 籠 江 

Đồng Lung giang thuỷ khứ du du,                          籠江水去悠悠 , 
Kim cổ nhàn sầu bất trú lưu.                                   今古閒愁不住流 . 
Sa chuỷ tàn lô phi bạch lộ,                                      沙嘴殘蘆飛白鷺 , 
Lũng đầu lạc nguyệt ngoạ hàn ngưu.                      隴頭落月臥寒牛 . 
Loạn sơn thuý tiếp cô thành mộ,                            山翠接孤城暮 , 
Thuỷ trúc hàn sinh tiểu điếm thu.                          水竹寒生小店秋 . 
Tiện nhĩ dã âu tuỳ thuỷ khứ,                                  羨爾野鷗隨水去 , 
Phù sinh lao lục kỷ thì hưu?                                   浮生勞碌幾時休 . 
Nguyễn Du                                                             阮 攸 

Dịch nghĩa: 
Dòng sông Đồng Lung nước chảy về chốn xa xăm. Mối sầu xưa và nay trôi theo dòng nước chẳng ngừng nghỉ. Nơi mõm cát có những con cò trắng bay trên đám lau sậy tàn lụi. Phía đầu gò đất, con trâu nằm dưới ánh trăng lạnh lẽo (c.1-4). Dãy núi xanh biếc nhấp nhô tiếp nối tòa thành lẻ loi vào cuối buổi chiều. Hàng quán nhỏ vào mùa thu có đám trúc nước tỏa hơi lạnh. Thèm muốn như loài chim âu bay theo dòng nước. Cuộc sống bềnh bồng nhọc nhằn bao giờ mới chấm dứt đây?(c.5-8) 

Tạm chuyển lục bát: 

SÔNG ĐỒNG LUNG 

Về xa dòng nước Đồng Lung, 
Mối sầu trôi mãi chẳng ngừng xưa nay. 
Lau tàn mõm cát cò bay, 
Tàn trăng lạnh lẽo trâu đây nằm gò. 
Thành chiều tiếp núi xanh lơ, 
Mùa thu trúc nước lạnh mờ quán con. 
Thèm như âu lượn theo dòng, 
Đời bao lâu hết bềnh bồng nhọc thân? 

Chú thích: 
- Đồng Lung Giang 同籠江: hay còn gọi là Lung giang tức sông Đồng Lung, là một nhánh của khúc sông Đáy nằm ở phía nam tỉnh Sơn Tây. 
- chủy 嘴: mõm sông, mõm cát, mõm chim. 
- lũng 隴: gò đất cao. 
- loạn sơ 亂山: núi nhấp nhô, lởm chởm. 
- điếm 店: cửa hàng, quán xá. 
- tiện 羨: thèm muốn, ham thích, thừa thải, tràn đầy… 
- nhĩ 爾: mày, ngươi; như thế, như vầy; hoa nở nhiều. 
- lao lục 勞碌: vất vả và bận rộn. 

Bài 71 

LẠNG SƠN ĐẠO TRUNG                                     諒 山 道 中 

Vạn mộc sơn tiền khả bốc cư,                                 萬木山前可卜居 , 
Bạch vân tại tụ thuỷ thông cừ.                                白雲在岫水通渠 . 
Sơn tăng đối trúc lưỡng vô dạng,                            山僧對竹兩無恙 , 
Mục thụ kỵ ngưu nhất bất như.                               牧豎騎牛一不如 . 
Ảnh lý tu my khan lão hỷ,                                      裏鬚眉看老矣 , 
Mộng trung tùng cúc ức qui dư.                             中松菊憶歸與 . 
Toạ gia thôn tẩu đa nhàn sự,                                   坐家村叟多閒事 , 
Chỉ vị bình sinh bất độc thư.                                   只為平生不讀書 . 
Nguyễn Du                                                              阮 攸 

Dịch nghĩa: 
Chỗ muôn ngàn cây trước ngọn núi có thể chọn làm chỗ ở. Trên ngọn núi có đám mây trắng và khe nước chảy. Nhà sư ở núi và khóm trúc, cả hai đều bình thản, chẳng việc gì. Chẳng ai bằng đứa trẻ cưỡi trâu kia (c.1-4). Nhìn vào ảnh mình trong gương với râu mày thấy mình đã già rồi. Trong giấc mơ thấy tùng và cúc nên nhớ chuyện quay trở về. Ông già xóm quê ngồi nhà sao quá nhàn hạ bởi vì suốt đời chẳng hề đọc sách (c.5-8). 

Tạm chuyển lục bát: 

GIỮA ĐƯỜNG ĐI LẠNG SƠN 

Chọn nơi ở núi muôn cây, 
Nước khe chảy suốt, đỉnh mây trắng ngần. 
Yên bình cả trúc lẫn tăng, 
Trẻ con trâu cưỡi ai bằng được đây?! 
Thấy già, soi bóng râu mày, 
Cúc tùng trong mộng nhớ quay trở về. 
Ngồi nhàn ông lão xóm quê, 
Suốt đời sách vở chẳng hề đọc chi! 

Chú thích: 
** Đây là bài thơ được Nguyễn Du làm phụng mệnh triều đình lên ải Nam Quan tiếp đón sứ nhà Thanh sang phong vương cho vua Gia Long (1803) khi đang trên đường đi Lạng Sơn. Năm sau (1804) nhân bị bệnh ông đã xin cáo bệnh về nghỉ ngơi. 
- khả bốc cư 可卜居: có thể được chọn lựa làm nơi ở. 
- tụ 岫: đỉnh ngọn núi hoặc hang núi. 
- cừ 渠: khe, ngòi nước, mương nước. 
- vô dạng 無恙: không lo lắng, không đau ốm, không có việc gì, bình thản trước mọi thứ. 
- mục thụ 牧豎: trẻ nhỏ chăn trâu, cũng gọi là mục đồng 牧童. 
- ức qui dư 憶歸與: nghĩ đến chuyện quay về quê cũ. 
- mộng trung tùng cúc 夢中松菊: trong giấc mơ thấy tùng và cúc, chỉ niềm mong ước được an nhàn của kẻ thích xa lánh công danh.  

Bài 72 

QUỶ MÔN ĐẠO TRUNG                                     鬼 門 道 中 

Quỉ môn thạch kính xuất vân côn (căn),                 鬼門石徑出雲根 , 
Chinh khách nam quy dục đoạn hồn.                     客南歸欲斷魂 . 
Thụ thụ đông phong xuy tống mã,                          樹樹東風吹送馬 , 
Sơn sơn lạc nguyệt dạ đề viên.                               山山落月夜啼猿 . 
Trung tuần lão thái phùng nhân lãn,                       中旬老態逢人懶 , 
Nhất lộ hàn uy trượng tửu ôn.                                一路寒威杖酒溫 . 
Sơn ổ hà gia đại tham thụy?                                   山塢何家大貪睡 , 
Nhật cao do tự yểm sài môn.                                  日高猶自掩柴門 . 
Nguyễn Du                                                             阮 攸  

Dịch nghĩa:  
Con đường mòn nền đá ở Quỷ Môn đi ra từ chân mây. Khách đi xa xuôi về nam như muốn bay lìa hồn vía! Gió mùa đông thổi qua hàng cây có đám ngựa tiễn đưa. Trăng tàn nơi dãy núi và đêm nghe tiếng vượn hú(c.1-4). Tuổi trung niên nhưng dáng dấp có vẻ già lão không thích gặp gỡ người ta. Đường đi lạnh lẽo nên phải nhờ đến hơi rượu ấm nồng. Nhà ai nơi hõm núi còn ham ngủ say sưa? Mặt trời đã lên cao mà cánh cửa tre vẫn còn đóng lại (c.5-8). 

Tạm chuyển lục bát: 

GIỮA ĐƯỜNG ĐI QUỶ MÔN 

Quỷ Môn đường đá chân mây, 
Về nam khách muốn lìa bay vía hồn! 
Hàng cây tiễn ngựa gió đông, 
Đêm nghe vượn hú dãy non trăng tà. 
Vẻ già lười gặp người ta, 
Đường đi sợ lạnh nhờ qua rượu nồng. 
Nhà ai say ngủ hõm non, 
Mặt trời cao tỏ cổng còn cài then. 

Chú thích: 
** Đây là bài thơ Nguyễn Du làm khi đón sứ giả nhà Thanh từ Lạng Sơn về Thăng Long qua Quỷ Môn Quan là con đường núi hẹp ở phía nam ải Chi Lăng là nơi các đoàn quân xâm lược phương Bắc đều sợ khiếp đảm khi tiến quân qua đây. 
- chinh khách 征客: khách đi xa. Ở đây chữ “khách” có nhiều ý nghĩa: vừa chỉ đoàn khách sứ giả nhà Thanh và vừa đề cập đến những đoàn quân xâm lăng phương Bắc trong lịch sử đánh chiếm nước ta ở phương nam. 
- đoạn hồn 斷魂: hồn vía bay lìa do sự sợ hãi lớn lao. 
- trung tuần 中旬: tức tuổi trung niên, khoảng từ 40 tuổi trở đi. 
- thái 態: dáng dấp, dáng vẻ, thái độ… 
- lãn 懶: lười biếng, không ham thích. 
- đại tham thụy 大貪睡: quá ham hố ngủ say. 
- sơn ổ 山塢: hõm núi, nơi có các vách núi xung quanh chỗ trũng. 

(Lần đến: Bài 73 ,74 ,75 và 76 / Thanh Hiên Thi Tập)

Dương Anh Sơn

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét