Thứ Tư, 31 tháng 8, 2022

Ức Trai Thi Tập Của Nguyễn Trãi: Bài 7, 8 và 9

 


ỨC TRAI THI TẬP CỦA NGUYỄN TRÃI: BÀI 7, 8 VÀ 9
Thầy Dương Anh Sơn 

Bài 7

KÝ CỮU DỊCH TRAI TRẦN CÔNG                     齋 陳 

Binh dư thân thích bán ly linh,                                       餘親戚半
Vạn tử tàn khu ngẫu nhất sinh.                                       殘軀偶一生
Vãng sự không thành Hòe quốc mộng,                          往事空成槐國夢
Biệt liên thùy tả Vị Dương tình.                                     別憐誰寫
Bất lai tự nghĩ đồng Vương Thức,                                  同王式
Tỵ loạn chung đương học Quản Ninh.                           亂終當學
Dục vấn tương tư sầu biệt xứ,                                         相思愁別處
Cô trai phong vũ dạ tam canh.                                        齋風雨夜三更
Nguyễn Trãi                                                               阮廌

DỊCH NGHĨA:

Phân nửa người thân sau loạn đã chia lìa ,tan tác - Vạn lần kề cận với cái chết, thân tàn ngẫu nhiên còn sống - Việc đã qua chẳng còn, thành giấc mộng nước Hòe – Ai đâu tả được tình cảm Vị Dương khi phải thương nhớ vì xa nhau – Không đến được nghĩ mình giống như Vương Thức - Rốt cùng tránh loạn lạc nên học theo Quản Ninh - Muốn hỏi nơi chốn của nỗi sầu nhớ khi phải xa cách – Mưa gió suốt ba canh nơi căn phòng đơn độc.

DỊCH THƠ:

GỬI CẬU DỊCH TRAI TRẦN CÔNG

Người thân sau loạn chia lìa,
Vạn lần suýt chết thân kia may còn.
Mộng Hòe, việc cũ không xong
Xa nhau ai tả tình nồng Vị Dương!?
Không về, nghĩ giống họ Vương,
Quản Ninh tránh loạn, học cùng ông thôi
Nhớ quê xa hỏi sầu khơi,
Phòng đơn mưa gió tơi bời ba canh.

CHÚ THÍCH:

- khu : thân thể
- Hòe quốc mộng 國夢:  chuyện xưa kể rằng có chàng trai thi hỏng nằm ngủ dưới gốc Hòe và nằm mộng thấy đỗ đạt giàu sang làm thái thú quận Nam Kha, lấy công chúa rồi đánh giặc thua, vợ chết, bị thất sủng. Tỉnh dậy còn nằm dưới gốc Hòe (hay còn gọi giấc Nam Kha).
- biệt liên 別憐: cách xa và thương nhớ nhau (Bản do Đ.D.Anh (S.đ.d) ghi là “biệt hoài”).
- thùy tả 誰寫: ai tả ra được, ai tả cho giống được.
- Vị Dương : theo Kinh Thi, Tấn Khương Công ,Trung Hoa đã tiễn đưa người cậu là Tấn Trùng Nhĩ tức Tấn Văn Công về nước ở đất Vị Dương.
- Vương Thức 王式: người đời Hán, T.H. thầy dạy Xương Ấp vương sau bị phế vì hoang dâm. Vương Thức được người hỏi: “Sao không can gián?” đã trả lời “Từng can gián qua sách vở rồi”.
- Quản Ninh: : kẻ sĩ người nước Ngụy thời Tam Quốc, T.H. Thuở hàn vi, thường ngồi học chung chiếu với Hoa Hâm. Một hôm, Hoa Hâm nghe ngoài đường có xe ngựa của  kẻ giàu sang đi qua bèn chạy ra xem. Quản Ninh đã cắt đôi chiếc chiếu ngồi! Về sau ông tránh loạn 37 năm ở Liêu Đông, được Văn Đế rồi Minh Đế cho mời ra làm quan đều từ chối.

Bài 8

KÝ HỮU (Kỳ nhất)                                                   ()

Loạn hậu thân bằng lạc diệp không,                          朋落
Thiên biên thư tín đoạn thu hồng.                             邊書鴻 
Cố viên quy mộng tam canh vũ,                                園歸夢三更雨
Lữ xá ngâm hoài tứ bích cùng.                                  旅舍吟四壁蛩
Đỗ lão hà tằng vong Vị Bắc,                                      杜老何曾忘渭北
Quản Ninh do tự khách Liêu Đông.                           寧猶自客遼東
Việt-Trung cố cựu như tương vấn,                             越中故如相
Vị đạo sinh nhai tự chuyển bồng                               道生涯似轉蓬
Nguyễn Trãi                                                              阮廌

DỊCH NGHĨA:

Sau loạn, người thân và bạn bè thưa thớt như lá rụng – Ven trời không có cánh chim hồng, thư tín đứt đoạn thưa vắng – Đêm canh ba mưa mãi, mộng về lại vườn xưa chốn cũ – Ngâm thơ cùng nỗi nhớ nhung nơi quán khách, tiếng dế mèn vang bốn bên vách tường – Ông già họ Đỗ quên sao được Vị Bắc - Quản Ninh tự mình làm khách chốn Liêu Đông - Nếu như có ai hỏi thăm bạn bè cũ ở Việt Trung - Nói rằng cuộc sống cứ như cỏ bồng vần xoay.

DỊCH THƠ:

GỬI BẠN (Bài 1)

Thân quen, sau loạn thưa người,
Cánh hồng thu dứt bên trời tin đưa
Mưa ba canh, mộng vườn xưa
Ngâm nga quán khách dế hòa bốn bên.
Đỗ già Vị Bắc nào quên,
Quản Ninh làm khách ở rền Liêu Đông.
Hỏi thăm người cũ Việt-Trung,
Đáp rằng : cuộc sống cỏ bồng vần xoay.

DỊCH NGHĨA:

Sau loạn, người thân và bạn bè thưa thớt như lá rụng – Ven trời không có cánh chim hồng, thư tín đứt đoạn thưa vắng – Đêm canh ba mưa mãi, mộng về lại vườn xưa chốn cũ – Ngâm thơ cùng nỗi nhớ nhung nơi quán khách, tiếng dế mèn vang bốn bên vách tường – Ông già họ Đỗ quên sao được Vị Bắc - Quản Ninh tự mình làm khách chốn Liêu Đông - Nếu như có ai hỏi thăm bạn bè cũ ở Việt Trung - Nói rằng cuộc sống cứ như cỏ bồng vần xoay

CHÚ THÍCH:

- lạc diệp không 落葉 空: thưa thớt, trống vắng như lá rụng.
- hồng : chim hồng, hoặc chim nhạn để chỉ sự liên  hệ thăm hỏi bằng tin tức.
- cố viên  : vườn xưa cũ, chỉ quê nhà.
ngâm  : ngâm nga hoặc ngâm thơ cùng với nỗi niềm lo nghĩ, nhớ nhung.
- cùng : con dế mèn. Có sách ghi là “trùng” chỉ côn trùng rả rích.
Đỗ  杜老: ông già họ Đỗ tức Đỗ Phủ, nhà thơ được xưng tụng là “Thi Thánh” bên T.H., bạn thân của Lý Bạch.
Vị Bắc 渭北: lấy ý trong câu thơ “Vị Bắc xuân thiên thụ - Giang Nam nhất mộ vân” của Đỗ Phủ (trong “Xuân nhật hoài Lý Bạch”) tả lòng mong nhớ bạn hiền của Đỗ Thiếu Lăng.
Quản Ninh : kẻ sĩ có khí phách thời Tam Quốc, làm khách tránh loạn ở Liêu Đông 37 năm.

Bài 9

KÝ HỮU (Kỳ nhị)                                                    寄友 ( )

Bình sinh thế lộ thán truân chiên,                             平生世路 
Vạn sự duy ưng phó lão thiên.                                   事惟付老天
Thốn thiệt đãn tồn không tự tín,                                寸舌但存空自信
Nhất hàn như cố diệc kham liên.                               一寒如故亦堪
Quang âm thúc hốt thời nan tái,                                 倏忽時難
Khách xá thê lương dạ tự niên.                                  客舍淒涼夜似年
Thập tải độc thư bần đáo cốt,                                     載讀書貧到骨
Bàn vô mục túc tọa vô chiên.                                    盤無苜蓿坐無氈
Nguyễn Trãi                                                              阮廌

DỊCH NGHĨA:

Đường đời trong cuộc sống vẫn than chuyện vất vả, gian lao – Muôn ngàn việc nên gửi gắm cho ông trời già - Tấc lưỡi còn đây vẫn tự tin vào mình  - Thật đáng thương vẫn nghèo như thuở nào – Tháng ngày qua nhanh vun vút khó trở lại được – Nơi quán khách buồn bã vắng tanh, đêm dài tựa như năm chày - Đọc sách cả mười năm mà cái nghèo đã đến tận xương cốt – Bàn ăn trống trải không rau mục túc, chỗ ngồi chẳng có đệm.

DỊCH THƠ:

GỬI  BẠN (Bài 2)

Đường đời gian khổ xiết bao!
Biết bao nhiêu chuyện đành giao lão trời.
Vẫn tin tấc lưỡi còn thôi,
Cái nghèo vẫn thế một đời thương thay.
Khó về vun vút tháng ngày,
Đêm buồn quán khách năm chày vắng tăm.
Nghèo xơ đọc sách mười năm,
Chỗ ngồi chẳng đệm, không mâm rau bày.

CHÚ THÍCH:

- truân chiên : gian lao, khó khăn vất vả.
- lão  老天: trời già: thường dùng để oán trách số phận.
- đãn  : chỉ có, suông rỗng.
- nhất hàn 一寒: một đời nghèo khổ.
- không tự 空自信: tin suông rằng, tin không có gì chắc.
- kham : đáng thương thay.
- thúc 倏忽: chớp nhoáng, đi nhanh vun vút.
- quang âm : chỉ thời gian, tháng ngày.
- thê lương 淒涼: buồn bã, vắng vẻ.
- dạ tự niên 夜似年: đêm giống như cả năm rồi.
- bần đáo cốt 到骨: nghèo tận xương, nghèo xơ xác.
- vô mục túc 苜蓿: không có rau có thể ăn được. Nghĩa là nghèo tới cùng cực!
- vô chiên 無氈: không có chiếu hay nệm bông. Thơ Đỗ Phủ tặng cho Trịnh Kiền có viết: "Tài danh tam thập niên/Tọa khách hàn vô chiên (Người tài danh trải qua ba mươi năm / Khách đến, trời lạnh lẽo, không có nệm để ngồi) để nói lên cảnh thanh bạch và nghèo nàn của người ẩn sĩ dạy học. Bản do Đ.D.A (S.đ.d, tr.245) hiệu đính là “Bàn duy mục túc 苜蓿.” Nghĩa là mâm bàn chỉ có rau mục túc. Bản do H.K. (S.đ.d tr.78) dùng chữ “vô” mạnh và hợp nghĩa với câu trên là “nghèo đến tận xương cốt” nghĩa là quá đỗi nghèo.

(Lần đến:  ƯTTT bài 10, 11 và 12)        

Dương Anh Sơn   

                                                                           

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét