ỨC TRAI THI TẬP CỦA NGUYỄN TRÃI: BÀI 7, 8 VÀ 9
Thầy Dương Anh Sơn
Bài 7
KÝ CỮU DỊCH TRAI TRẦN
CÔNG 寄 舅 易 齋 陳 公
Binh dư thân thích bán ly
linh, 兵餘親戚半離零
Vạn tử tàn khu ngẫu nhất
sinh. 萬死殘軀偶一生
Vãng sự không thành
Hòe quốc mộng, 往事空成槐國夢
Biệt liên thùy tả Vị Dương
tình. 別憐誰寫渭陽情
Bất lai tự nghĩ đồng Vương
Thức, 不來自擬同王式
Tỵ loạn chung đương học
Quản Ninh. 避亂終當學管寧
Dục vấn tương tư sầu biệt
xứ, 欲問相思愁別處
Cô trai phong vũ dạ tam
canh. 孤齋風雨夜三更
Nguyễn Trãi 阮廌
DỊCH NGHĨA:
Phân nửa người thân sau loạn đã chia lìa ,tan tác - Vạn lần kề cận với
cái chết, thân tàn ngẫu nhiên còn sống - Việc đã qua chẳng còn, thành giấc mộng
nước Hòe – Ai đâu tả được tình cảm Vị Dương khi phải thương nhớ vì xa nhau –
Không đến được nghĩ mình giống như Vương Thức - Rốt cùng tránh loạn lạc nên học
theo Quản Ninh - Muốn hỏi nơi chốn của nỗi sầu nhớ khi phải xa cách – Mưa gió
suốt ba canh nơi căn phòng đơn độc.
DỊCH THƠ:
GỬI CẬU
DỊCH TRAI TRẦN CÔNG
Người thân sau loạn chia lìa,
Vạn lần suýt chết thân kia may còn.
Mộng Hòe, việc cũ không xong
Xa nhau ai tả tình nồng Vị Dương!?
Không về, nghĩ giống họ
Vương,
Quản Ninh tránh loạn, học cùng ông thôi
Nhớ quê xa hỏi sầu khơi,
Phòng đơn mưa gió tơi bời ba canh.
CHÚ THÍCH:
- khu 軀:
thân thể
- Hòe quốc mộng 槐國夢:
chuyện xưa kể rằng có chàng trai thi hỏng nằm ngủ dưới gốc Hòe và nằm mộng thấy
đỗ đạt giàu sang làm thái thú quận Nam Kha, lấy công chúa rồi đánh giặc thua,
vợ chết, bị thất sủng. Tỉnh dậy còn nằm dưới gốc Hòe (hay còn gọi giấc Nam
Kha).
- biệt liên 別憐: cách xa và thương nhớ nhau (Bản do Đ.D.Anh (S.đ.d) ghi là “biệt
hoài”).
- thùy tả 誰寫: ai tả ra được, ai tả cho giống được.
- Vị Dương 渭陽: theo Kinh Thi, Tấn Khương Công ,Trung Hoa đã tiễn đưa người cậu
là Tấn Trùng Nhĩ tức Tấn Văn Công về nước ở đất Vị Dương.
- Vương Thức 王式: người đời Hán, T.H. thầy dạy Xương Ấp vương
sau bị phế vì hoang dâm. Vương Thức được người hỏi: “Sao không can gián?” đã
trả lời “Từng can gián qua sách vở rồi”.
- Quản Ninh: 管寧:
kẻ sĩ người nước Ngụy thời Tam Quốc, T.H. Thuở hàn vi, thường ngồi học chung
chiếu với Hoa Hâm. Một hôm, Hoa Hâm nghe ngoài đường có xe ngựa của kẻ
giàu sang đi qua bèn chạy ra xem. Quản Ninh đã cắt đôi chiếc chiếu ngồi! Về
sau ông tránh loạn 37 năm ở Liêu Đông, được Văn Đế rồi Minh Đế cho mời ra làm
quan đều từ chối.
Bài 8
KÝ HỮU (Kỳ nhất) 寄 友 (其一)
Loạn hậu thân bằng lạc
diệp không, 亂後親朋落葉空
Thiên biên thư tín đoạn
thu hồng. 天邊書信斷秋鴻
Cố viên quy mộng tam
canh vũ, 故園歸夢三更雨
Lữ xá ngâm hoài tứ bích
cùng. 旅舍吟壞四壁蛩
Đỗ lão hà tằng vong Vị
Bắc, 杜老何曾忘渭北
Quản Ninh do tự khách
Liêu Đông. 管寧猶自客遼東
Việt-Trung cố cựu như
tương vấn, 越中故舊如相問
Vị đạo sinh nhai tự
chuyển bồng 為道生涯似轉蓬
Nguyễn
Trãi 阮廌
DỊCH NGHĨA:
Sau loạn, người thân và
bạn bè thưa thớt như lá rụng – Ven trời không có cánh chim hồng, thư tín đứt
đoạn thưa vắng – Đêm canh ba mưa mãi, mộng về lại vườn xưa chốn cũ – Ngâm thơ
cùng nỗi nhớ nhung nơi quán khách, tiếng dế mèn vang bốn bên vách tường – Ông
già họ Đỗ quên sao được Vị Bắc - Quản Ninh tự mình làm khách chốn Liêu Đông -
Nếu như có ai hỏi thăm bạn bè cũ ở Việt Trung - Nói rằng cuộc sống cứ như cỏ
bồng vần xoay.
DỊCH THƠ:
GỬI BẠN (Bài 1)
Thân quen, sau loạn thưa người,
Cánh hồng thu dứt bên trời tin đưa
Mưa ba canh, mộng vườn xưa
Ngâm nga quán khách dế hòa bốn bên.
Đỗ già Vị Bắc nào quên,
Quản Ninh làm khách ở rền Liêu Đông.
Hỏi thăm người cũ Việt-Trung,
Đáp rằng : cuộc sống cỏ bồng vần xoay.
DỊCH NGHĨA:
Sau loạn, người thân và bạn bè thưa thớt như lá
rụng – Ven trời không có cánh chim hồng, thư tín đứt đoạn thưa vắng – Đêm canh
ba mưa mãi, mộng về lại vườn xưa chốn cũ – Ngâm thơ cùng nỗi nhớ nhung nơi quán
khách, tiếng dế mèn vang bốn bên vách tường – Ông già họ Đỗ quên sao được Vị
Bắc - Quản Ninh tự mình làm khách chốn Liêu Đông - Nếu như có ai hỏi thăm bạn
bè cũ ở Việt Trung - Nói rằng cuộc sống cứ như cỏ bồng vần xoay
CHÚ THÍCH:
- lạc diệp
không 落葉 空: thưa thớt, trống vắng như lá rụng.
- hồng 鴻: chim hồng, hoặc chim
nhạn để chỉ sự liên hệ thăm hỏi bằng tin tức.
- cố viên 故園: vườn xưa cũ, chỉ quê nhà.
- ngâm 吟壞: ngâm nga hoặc ngâm thơ cùng với nỗi
niềm lo nghĩ, nhớ nhung.
- cùng 蛩: con dế mèn.
Có sách ghi là “trùng” chỉ côn trùng rả rích.
- Đỗ 杜老: ông già họ Đỗ tức Đỗ Phủ, nhà thơ
được xưng tụng là “Thi Thánh” bên T.H., bạn thân của Lý Bạch.
- Vị Bắc 渭北: lấy ý trong câu thơ “Vị Bắc xuân thiên thụ -
Giang Nam nhất mộ vân” của Đỗ Phủ (trong “Xuân nhật hoài Lý Bạch”) tả lòng mong
nhớ bạn hiền của Đỗ Thiếu Lăng.
- Quản Ninh 管寧: kẻ sĩ có khí phách thời Tam Quốc, làm
khách tránh loạn ở Liêu Đông 37 năm.
Bài 9
KÝ HỮU (Kỳ nhị) 寄友 (其 二)
Bình sinh thế lộ thán
truân chiên, 平生世路嘆 屯邅
Vạn sự duy ưng phó lão
thiên. 萬事惟應付老天
Thốn thiệt đãn tồn không
tự tín, 寸舌但存空自信
Nhất hàn như cố diệc
kham liên. 一寒如故亦堪憐
Quang âm thúc hốt thời
nan tái, 光陰倏忽時難再
Khách xá thê lương dạ tự
niên. 客舍淒涼夜似年
Thập tải độc thư bần đáo
cốt, 十載讀書貧到骨
Bàn vô mục túc tọa vô
chiên. 盤無苜蓿坐無氈
Nguyễn Trãi 阮廌
DỊCH NGHĨA:
Đường đời trong cuộc
sống vẫn than chuyện vất vả, gian lao – Muôn ngàn việc nên gửi gắm cho ông trời
già - Tấc lưỡi còn đây vẫn tự tin vào mình - Thật đáng thương vẫn nghèo
như thuở nào – Tháng ngày qua nhanh vun vút khó trở lại được – Nơi quán khách
buồn bã vắng tanh, đêm dài tựa như năm chày - Đọc sách cả mười năm mà cái nghèo
đã đến tận xương cốt – Bàn ăn trống trải không rau mục túc, chỗ ngồi chẳng có
đệm.
DỊCH THƠ:
GỬI BẠN (Bài 2)
Đường đời gian khổ xiết bao!
Biết bao nhiêu chuyện đành giao lão trời.
Vẫn
tin tấc lưỡi còn thôi,
Cái nghèo vẫn thế một đời thương thay.
Khó về vun vút tháng ngày,
Đêm
buồn quán khách năm chày vắng tăm.
Nghèo xơ
đọc sách mười năm,
Chỗ ngồi
chẳng đệm, không mâm rau bày.
CHÚ THÍCH:
- truân chiên 屯邅: gian lao, khó khăn vất vả.
- lão 老天: trời già: thường dùng để oán trách số
phận.
- đãn 但: chỉ có, suông rỗng.
- nhất hàn 一寒: một đời nghèo khổ.
- không tự 空自信: tin suông rằng, tin không có gì chắc.
- kham 堪憐: đáng thương thay.
- thúc 倏忽: chớp nhoáng, đi nhanh vun vút.
- quang âm 光陰: chỉ thời gian, tháng ngày.
- thê lương 淒涼: buồn bã, vắng vẻ.
- dạ tự niên 夜似年: đêm giống như cả năm rồi.
- bần đáo cốt 貧到骨: nghèo tận xương, nghèo xơ xác.
- vô mục túc 無苜蓿: không có rau có thể ăn được. Nghĩa là nghèo tới cùng cực!
- vô chiên 無氈: không có chiếu hay nệm
bông. Thơ Đỗ Phủ tặng cho Trịnh Kiền có viết: "Tài danh tam thập
niên/Tọa khách hàn vô chiên (Người tài danh trải qua ba mươi năm /
Khách đến, trời lạnh lẽo, không có nệm để ngồi) để nói lên cảnh thanh bạch và
nghèo nàn của người ẩn sĩ dạy học. Bản do Đ.D.A (S.đ.d, tr.245) hiệu đính là
“Bàn duy mục túc 盤惟苜蓿.” Nghĩa là mâm bàn chỉ có rau mục túc. Bản do H.K. (S.đ.d tr.78)
dùng chữ “vô” mạnh và hợp nghĩa với câu trên là “nghèo đến tận xương cốt” nghĩa
là quá đỗi nghèo.
(Lần đến: ƯTTT bài 10, 11 và 12)
Dương Anh Sơn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét