Thứ Hai, 18 tháng 12, 2023

Thơ Chữ Hán Của Nguyễn Du - Nam Trung Tạp Ngâm - Bài 14, 15, 16, 17, 18, 19 Và 30

 


THƠ CHỮ HÁN CỦA NGUYỄN DU - NAM TRUNG TẠP NGÂM - BÀI 14, 15, 16, 17, 18 (5 BÀI TỨ TUYỆT), 19 VÀ 20
Thầy Dương Anh Sơn

THƠ CHỮ HÁN CỦA NGUYỄN DU

Tập 2 : NAM TRUNG TẠP NGÂM

NGẪU HỨNG (NGŨ THỦ)                                                      偶 興 (五首)

NHẤT THỦ                                                                               一 首

Tam nguyệt xuân thì trưởng đậu miêu,                                      三月春時長豆苗,
Hoàng hồ phì mãn, bạch hồ kiêu.                                              黄狐肥满白狐驕.
Chủ nhân tại lữ bất quy khứ, 主人在旅不歸去,
Khả tích Hồng Sơn thuộc vãn tiều.                                            可惜鴻山屬晚樵.

NHỊ THỦ                                                                                    二 首

Lô hoa sơ bạch, cúc sơ hoàng,                                                   蘆花初白菊初黃,
Thiên lý hương tâm dạ cộng trường.                                         千里鄉心夜共長.
Cưỡng khởi thôi song vọng minh nguyệt,                                 彊起推窗望明月,
Lục âm trùng điệp bất di quang.                                                綠陰重疊不遺光 .

TAM THỦ                                                                                  三 首

Nhất đái ba tiêu lục phúc giai,                                                   一帶芭蕉綠覆階,
Bán gian yên hỏa tạp trần ai.                                                     半間煙火雜塵埃.
Khả liên đình thảo sam trừ tận,                                                  可憐庭草芟除盡,
Tha nhật xuân phong hà xứ lai?                                                 他日春風何處來?

TỨ THỦ                                                                                     四 首

Cố hương cang hạn cửu phương nông,                                      故鄉亢旱久妨農,
Thập khẩu hài nhi thái sắc đồng.                                               十口孩兒菜色同.
Thí tự thuần lô tối quan thiết,                                                    譬似蒪鱸最關切,
Hoài quy nguyên bất đãi thu phong.                                          懷歸原不待秋風.

NGŨ THỦ                                                                                  五 首

Hữu nhất nhân yên lương khả ai,                                               有一人焉良可哀,
Phá y tàn lạp sắc như hôi.                                                          破衣殘笠色如灰.
Tị nhân đãn mịch đạo bàng tẩu,                                                 避人但覓道傍走,
Tri thị Thăng Long thành lý lai.                                                 知是昇龍城裏來.

Dịch nghĩa:

Bài 14: Vào tháng ba của mùa xuân là lúc đậu đã đâm chồi lớn lên.- Con cáo lông vàng béo to đầy đặn, còn con cáo lông trắng dáng vẻ kiêu hãnh.- Người chủ vẫn còn ở nơi đất khách xa xôi chưa quay trở về. - Đáng tiếc dãy núi Hồng giao phó cho ông tiều phu già.

Bài 15: Những ngọn bông lau vừa chớm trắng và những hoa cúc cũng vừa mới bắt đầu có màu vàng. Lòng thương nhớ quê hương ở xa ngàn dặm khiến cho đêm hôm càng dài thêm. Gắng gượng đứng dậy đẩy cửa sổ ngắm vầng trăng sáng. Bóng râm màu xanh lục dày đặc không để lọt ánh trăng vào.

Bài 16: Một dãy chuối bẹ xanh lục như đổ úp xuống thềm nhà. Một nửa căn nhà lửa khói chen lẫn với bụi bặm. Đáng thương cho đám cỏ ngoài sân bị cắt trụi lủi. Mai này cơn gió xuân có nơi nào để đến đây?

Bài 17: Ở quê nhà nắng hạn đã lâu ngày, mùa màng bị tổn hại. Trẻ nhỏ mười miệng ăn cùng một màu với rau cỏ. Ví như quá đỗi tha thiết với món canh rau nhút hay con cá vược thì đâu cần chờ đợi gió thu mới nhớ nhung chuyện quay về chốn cũ.

Bài 18: Có một người hiền lành đáng thương sao! Áo quần rách bươm, chiếc nón cời tơi tả, vẻ mặt giống như màu tro. Đi vội vàng tránh người, chỉ kiếm đường đi ven bờ. Biết chắc là người ấy đến từ trong thành Thăng Long.

Tạm chuyển lục bát:

NGẪU HỨNG

BÀI 14

Đậu đâm chồi tháng ba xuân,
Vẻ kiêu, cáo trắng, cáo vàng béo phơi.
Trọ xa chủ chẳng về rồi,
Tiều già, Hồng Lĩnh giao người tiếc thay!!

BÀI 15

Hoa lau vừa trắng, cúc vàng,
Lòng quê ngàn dặm đêm càng dài mong.
Ngắm trăng gượng dậy đẩy song,
Râm dày, trăng sáng chớ hòng lọt qua.

BÀI 16

Chuối xanh một dãy đổ thềm,
Nửa gian khói bếp, lẫn chen bụi trần.
Khá thương cắt trụi cỏ sân,
Mai này đâu chỗ gió xuân đến rồi.

BÀI 17

Quê nhà mùa mất, hạn lâu,
Miệng ăn, mười trẻ màu rau xanh cùng.
Thiết tha cá vược, rau thuần,
Gió thu chẳng đợi, nhớ nhung quay về.

BÀI 18

Thương sao hiền hậu một người
Sắc tro, áo rách nón cời tả tơi.
Đường bên vội bước tránh người!
Thành Thăng Long đến đúng rồi biết ngay!

Chú thích:

- miêu 苗: lúa non, đâm chồi, mầm mống...
- kiêu 驕: vẻ kiêu ngạo, kiêu kỳ, ra bộ hơn người.
- lữ 旅: ở trọ nơi xa, đi xa, đất khách quê người.
- tích 惜: tiếc .
- vãn tiều 晚樵: người tiều phu già, người đốn củi già (Vd: vãn niên, vãn tuế... đều nói về tuổi già, tuổi xế chiều). Trong câu thứ tư của bài 14 này, Nguyễn Du tỏ ý luyến tiếc thời kỳ sống ẩn dật dưới chân Hồng Lĩnh. Đó là thời kỳ nghèo khó, thiếu thốn nhưng tinh thần thoải mái ,tiêu sái “ngoài vòng cương tỏa“! Ông đã tự đặt biêt hiệu “Nam Hải điếu đồ” và “Hồng Sơn liệp hộ” (Kẻ chài cá ở biển Nam và phường săn ở núi Hồng)
- cưỡng khởi 彊起: gắng gượng đứng dậy...
- thôi 推: xô, đẩy ra.
- lục âm 綠陰: bóng râm, màu xanh lục đậm.
- yên hỏa 煙火: khói và lửa của bếp lò; nghĩa khác là khói lửa của chiến tranh...
- di 遺: để lọt ra, sót lại, chia lại, rơi mất...
- phúc 覆: đổ ụp xuống, báo lại, trả lại, xét lại, tráo trở, lật nghiêng, không ngay ngắn.
- giai 階: bậc thềm, bậc thang, thứ bậc...
- tạp 雜: vụn vặt, tạp nhạp, chen lẫn, loang lổ, linh tinh.
- sam 芟: cắt cỏ, trừ cỏ, nhổ cỏ.
- phương 妨: tổn hại, phương hại, thiệt thòi, trở ngại...
- thái 菜: rau ăn được.
- thí tự 譬似: nếu như, ví như.
- thập khẩu hài nhi 十口孩兒: theo gia phả của Nguyễn Du, ông có ba bà vợ. Bà vợ đầu sinh được một con trai tên là Nguyễn Tứ nhưng bị mất sớm sau khi cùng cha đi sang Trung Hoa về. Bà vợ thứ hai sinh được con trai tên là Nguyễn Ngũ. Bà vợ thiếp thứ ba sinh được mười trai, sáu gái.
- thuần,lô 蒪 鱸: thuần còn gọi là rau nhút hoặc rau rút và lô là cá vược (còn gọi là cá lú hay cá lư là loại cá biển ăn rất ngon). Theo điển tích của Trung Hoa,ngày xưa có viên quan tên là Trương Hàn làm quan ở xa ,khi gió thu về nhớ món rau thuần và cá vược ở quê hương nên từ quan quay về nhà.
- tối quan thiết 最關切: quá đỗi cần thiết, rất quan tâm, rất thiết tha.
- yên 焉: cách dùng thay thế sự vật; sao vậy, biểu thị nghi vấn, chữ đặt sau phó từ chỉ sự trạng, đồng thời là tên một loài chim màu vàng ở bên Trung Hoa.
- lương 良: hiền lành, lương thiện, đàng hoàng.
- sắc 色: màu sắc, vẻ mặt con người.
- hôi 灰: tro tàn, màu tro sạm, xám xịt.
- tỵ 避: tránh, lánh mặt.
- mịch 覓 : tìm kiếm.
- tẩu 走: đi nhanh, chạy nhanh, vội vàng.
- lạp 笠: nón đội che đầu làm bằng tre hoặc lá cọ. Người địa phương phía bắc miền trung thường gọi nón cời.
- tri thị 知是: biết đúng là ,biết chắc là...

** Trong bài NGẪU HỨNG thứ năm này, Nguyễn Du cho thấy đây là hình ảnh chính mình và nhiều cựu thần triều Lê theo lời kêu gọi của vua Gia Long khi thống nhất đất nước lên ngôi vua ,đã cho mời nhiều người vào kinh đô Huế để làm việc. Tư thế của họ có vẻ lạ lẫm ,ngại ngùng, xơ xác... v.v... khi đi vào Huế sau một thời gian tao loạn giữa nhà Tây Sơn và Nguyễn Ánh...

BÀI 19

THỦY LIÊN ĐẠO TRUNG TẢO HÀNH                                水連道中早行

Bi mạc bi hề hành đạo nan,                                                        悲莫悲兮行道難,
Thảo đầu lộ túc phạm suy nhan.                                                草頭露宿犯衰顏.
Bách niên cổ đạo giai thành hác,                                               百年古道皆成壑,
Nhất đái bình lâm bất kiến san.                                                 一带平臨不見山.
Đa bệnh nhất thân cung đạo lộ,                                                 多病一 身供道路,
Ngũ canh tàn mộng tục hương quan.                                         五更残夢續鄊關.
Ngẫu phùng qui khách hướng dư thoại,                                    偶逢歸客向余話,
Tạc tuế triều thiên sạ phóng hoàn.                                             昨歲朝天乍放還.

Dịch nghĩa:

Buồn thay, thương thay phải đi con đường đầy khó khăn. – Gối đầu lên cỏ nghỉ lại đêm với sương đẫm ướt, mặt mày phờ phạc. - Con đường xưa cũ một trăm năm đã thành con mương nước chảy - một dải bằng phẳng không thấy núi non. (c.1-4) Một thân mình lắm bệnh phải dấn mình phơi bày nơi đường xá - Canh năm giấc mộng đã hết rồi lại tiếp tục mơ màng về chốn quê nhà. - Tình cờ ta gặp được một người khách đi về trò chuyện - năm vừa rồi vào chầu vua, bỗng được cho trở về. (c.5-8)

Tạm chuyển lục bát:

SÁNG SỚM ĐI TRÊN ĐƯỜNG THỦY LIÊN

Phải đi đường khó thương thay!
Nghỉ đêm gối cỏ mặt mày dầm sương!
Trăm năm lối cũ thành mương,
Núi non chẳng thấy, đến vùng phẳng băng.
Đi đường lắm bệnh một thân,
Canh năm tàn mộng mơ màng hương quê.
Tình cờ trò chuyện khách về,
Chầu vua năm trước bỗng cho về nhà.

Chú thích:

- Thủy Liên 水連: tên một vùng ở huyện Lệ Thủy, Quảng Bình. Bài thơ được sáng tác trong thời gian được triều đình thăng chức Đông Các học sĩ, tước Du Đức Hầu đi vào Huế nhận chức1.
- tảo hành 早行: ra đi lúc sáng sớm.
- bi mạc, bi hề: lấy ý từ trong bài Cửu Ca 九歌 của nhà thơ Khuất Nguyên 屈原 nước Sở bên Trung Hoa “Bi mạc bi hề sinh biệt ly, lạc mạc lạc hề tân tương tri 悲莫悲兮生別離,樂莫樂兮新相知“ (nghĩa là: Không có gì buồn hơn là sống phải từ biệt nhau,không có gì vui hơn khi mới quen nhau).
- thảo đầu lộ túc 草頭露宿: gối đầu lên cỏ (thảo đầu) để nghỉ lại qua đêm (túc) với sương móc ướt đẫm (lộ).
- suy nhan 衰顏: vẻ mặt phờ phạc, hốc hác mệt nhọc.
- hác 壑: mương hào cho nước chảy, hang hốc, trống hoác.
- bình lâm: 平臨: đến vùng bằng phẳng (lâm: đến, tới, kịp lúc gần kề, trên soi xuống...).
- cung 供: bày ra, nuôi dưỡng, đặt, tặng, lời khai (khẩu cung)
- tục 供: tiếp tục, tiếp nối, tiếp liền.
- hương quan 鄊關: cổng làng quê, quê nhà ,quê hương...
- qui khách hướng 歸客向: khách quay hướng trở về.
- dư 余: ta, tôi.
- sạ 乍: bất chợt, bỗng nhiên, không ngờ.
- phóng 放: tha, thả ra, buông thả.

BÀI 20

TẶNG NHÂN                                                                            贈人
Doanh doanh nhất thủy giới cô thôn,                                         盈盈一水界孤村,
Trung hữu cao nhân bất xuất môn.                                            中有高人不出門.
Tiêu lộc mộng trường tâm bất cạnh,                                          蕉鹿夢場心不競,
Tần Tùy vãng sự khẩu năng ngôn.                                             秦隋往事口能言.
Xuân vân mãn kính quần mi lộc,                                               春雲滿徑群麋鹿,
Thu đạo đăng trường đốc tử tôn.                                               秋稻豋場督子孫.
Ngã dục quải quan tòng thử thệ,                                                我欲掛冠從此逝,
Dữ ông thọ tuế lạc cầm tôn.                                                       與翁壽歲樂琴樽.

Dịch nghĩa:

Một dòng sông đầy tràn nước làm ranh giới cho một thôn lẻ loi. - Bên trong có bậc hiền nhân không hề ra ngoài cửa làng - cõi lòng chẳng ham chuyện ganh đua, xem chuyện “dấu hươu bằng lá chuối” chỉ là chốn của giấc mộng. - Vẫn thường kể những chuyện thời trước của đời Tần, đời Tùy. (c.1-4) Vào mùa xuân, mây giăng khắp đường đi nhỏ hẹp , làm bạn với bầy hươu, lũ nai. - Đến mùa thu khi(gặt hái) loài lúa nước (đã chín), đốc thúc con cháu đưa vào sân phơi phóng... . - Ta cũng muốn treo mũ quan theo ông cụ già không trở lại để cùng gảy đàn, uống rượu vui với những năm của tuổi thọ. (c.5-8)

Tạm chuyển lục bát:

TẶNG BẠN

Thôn côi ranh nước tràn sông,
“ Cao nhân” trong ấy đã không ra ngoài.
Không tranh mộng “chuối hươu” này,
Chuyện Tần Tùy cũ kể hoài thường luôn.
Hươu nai vầy bạn, lối mây xuân,
Lúa thu phơi phóng thúc đàn cháu con.
Mũ treo ta cũng rắp mong,
Gảy đàn, uống rượu cùng ông vui già!

Chú thích:

- doanh doanh 盈盈: tràn đầy, rất nhiều.
- cao nhân 高人: người có sĩ khí, tâm hồn phóng khoáng cao thượng, hơn người. Cũng chỉ những người có học, thích đời sống ẩn dật an nhàn.
- tiêu lộc mộng 蕉鹿夢: sách Liệt Tử (Trung Hoa) chép chuyện có người đi hái củi đánh chết được một con hươu đem giấu vào hang rồi lấy lá chuối rừng che lên. Sau quên bẳng không nhớ chỗ giấu hươu cho là giấc chiêm bao thôi.
- cạnh 競: cạnh tranh, ganh đua, đua tranh....
- Tần Tùy 秦隋: Tần là triều đại Ɵêu diệt nhà Chu và có công thống nhất Trung Hoa nhưng đường lối cai trị khắc nghiệt, tàn bạo. Tùy là triều đại lập nên bởi Dương Kiên (581-618) cũng có chính sách không hợp lòng người. Cả hai triều đại đó khiến nhiều người phải Ơm vào hoang sơn rừng thẳm để lánh nạn.
- quần 群: bè bạn, bầy nhóm, tụ họp thành đàn lũ, cùng nhau...
- khẩu năng ngôn 口能言: miệng hay kể lể, trò chuyện.
- kính 徑: đường mòn, đường tắt, đường nhỏ hẹp, thẳng...
- đạo đăng trường 稻豋場: lúa gié, lúa nếp, lúa nước...v.v... (đạo) chứa (đăng) trong sân rộng bằng phẳng (trường: sân phơi lúa, nơi chốn, tụ tập)...
- quải quan 掛冠: treo mũ quan chỉ việc từ quan về ẩn dật.
- thệ 逝: trôi chảy, đi không trở lại, chết, trôi qua, lời thề...
- cầm tôn 琴樽: cây đàn và chén rượu. Chỉ thú vui thanh tao của các bậc ẩn sĩ không muốn chen chân vào chuyện đua tranh của người đời.

(Lần đến: NAM TRUNG TẠP NGÂM bài 21, 22 và 23)

Dương Anh Sơn


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét