Thứ Ba, 12 tháng 12, 2023

Thơ Đỗ Phủ - Bài 65, 66 Và 67

 


THƠ ĐỖ PHỦ - BÀI 65, 66 VÀ 67
Thầy Dương Anh Sơn 


BÀI 65

VŨ MIẾU                                                                                   禹廟

Vũ miếu không sơn lý,                                                               禹廟空山裏,
Thu phong lạc nhật tà.                                                               秋風落日斜。
Hoang đình thùy quất dữu,                                                        荒庭垂橘柚,
Cổ ốc họa long xà.                                                                     古屋畫龍蛇。
Vân khí sinh hư bích,                                                                 雲氣生虛壁,
Giang thâm tẩu bạch sa.                                                             江深走白沙。
Tảo tri thừa tứ tải,                                                                      早知乘四載,
Sơ tạc khống Tam Ba.                                                                疏鑿控三巴。
Đỗ Phủ                                                                                       杜甫

Làm năm 765 với dòng ghi chú: “Thử trung Châu, Lâm Giang huyện, Vũ từ dã“ (Ở nơi đây là miếu thờ vua Vũ, vùng Trung Châu, huyện Lâm Giang)

Dịch nghĩa:

Đền thờ vua Vũ ở trong núi vắng vẻ - Ngọn gió mùa thu còn rơi rớt lại trong ánh trời chiều – Sân miếu bỏ phế với những cây quýt, cây bưởi buông rủ xuống – Gian nhà xưa cũ vẽ rồng rắn(c.1-4).

Hơi mây tỏa ra từ những bức vách trống trải – Dòng sông sâu chạy trên làn cát trắng – Đã sớm biết bốn loại xe để chuyên chở (chở vua) – Đào vét để thông dòng nước và chế ngự vùng Tam Ba (c.5-8)

Tạm chuyển lục bát:

MIẾU THỜ VUA VŨ.

Trong non miếu vũ quạnh hiu,
Gió thu rơi rớt nắng chiều con vương .
Sân hoang quýt bưởi rủ buông ,
Nhà xưa vẽ những rắn rồng trong gian.
Hơi mây vách trống tỏa lan,
Sông sâu theo cát chạy làn trắng phau.
Bốn xe sớm biết chở vua,
Tam Ba giữ vững vét đào cho thông!

Chú thích: 

- Vũ miếu 禹廟: đền thờ hay miếu thờ vua Vũ.Theo Sử Ký Tư Mã Thiên của ngưởi Trung Hoa, vua Vũ hay Hạ Đại Vũ tên thực là Hạ Tử Thành (2298-2198 TCN) là một ông vua huyền thoại của lịch sử Trung Hoa cổ đại đã phá bỏ lệ truyền hiền của các vua anh minh đời trước như vua Nghiêu, vua Thuấn để chuyển sang chế độ cha truyền con nối khi lập ra nhà Hạ. Truyền thuyết của người Trung Hoa luôn nhắc đến vua Hạ Vũ vì ông là người rất quan tâm đến việc tìm phương pháp trị thủy góp phần khống chế nạn lũ lụt vẫn thường xảy ra hàng năm ở nhiều nơi bên Trung Hoa nhất là vùng tập trung Tam Ba.
- không 空: trống rỗng, vắng vẻ, quạnh hiu, không có gì...
- lạc 落: rơi rụng, rơi rớt, thưa thớt, rơi lại, sót lại, tụt hậu, tụt lại, suy thoái...
- thùy quất dữu 垂橘柚: cây quýt (quất), cây bưởi (dữu) buông xuống, rủ xuống (thùy)
- ốc 屋: nhà ở, gian nhà, phòng ốc...
- hư bích 虛壁: vách tường trống trải.
- tẩu 走: chạy, ở đây cũng có nghĩa là dòng song sâu tuôn chảy theo làn cát trắng ở đáy song.
- tảo tri 早知: sớm biết rằng.
- sơ tạc 疏鑿: đẽo gọt , nạo vét cho thông suốt (sơ: thông suốt, giúp đỡ, chạm đục)
- khống 控: giữ chặt, chế ngự, khống chế...

BÀI 66

LỮ DẠ THƯ HOÀI                                                                   旅夜書懷

Tế thảo vi phong ngạn,                                                              細草微風岸,
Nguy tường độc dạ chu.                                                             危檣獨夜舟。
Tinh thùy bình dã khoát,                                                            星垂平野闊,
Nguyệt dũng đại giang lưu.                                                       月涌大江流。
Danh khởi văn chương trứ,                                                        名豈文章著,
Quan ưng lão bệnh hưu.                                                             官應老病休。
Phiêu phiêu hà sở tư?                                                                 飄飄何所似?
Thiên địa nhất sa âu.                                                                  天地㇐沙鷗。
Đỗ Phủ (năm 765)                                                                     杜甫

Dịch nghĩa:

Gió thổi ven bờ có những đám cỏ nhỏ bé mịn màng – Con thuyền lẻ loi trong đêm với cột buồm cao ngất – Các vì sao buông xuống nơi cánh đồng bằng phẳng rộng lớn – Vầng trăng dâng lên theo dòng nước chảy của con sông lớn. (c.1-4)

Cái danh không phải do văn chương mới có tiếng hay sao?! – Làm quan nên lui về nghỉ ngơi khi già và bệnh - Phiêu dạt về chốn nào như thế đây? – Giữa trời đất (bao la) ,một con chim âu (lẻ loi) trên dãi cát (c.5-8).

Tạm chuyển lục bát:

BAN ĐÊM GHI LẠI MỐI LO NGHĨ NƠI ĐẤT KHÁCH.

Gió bờ cỏ nhỏ mịn màng,
Thuyền đêm đơn lẻ cao giăng cột buồm.
Cánh đồng phẳng rộng sao buông,
Con sông lớn chảy ,trăng dâng theo dòng.
Há danh: tăm tiếng văn chương?!
Làm quan già bệnh nên thường lui thôi!
Chốn nào phiêu dạt chơi vơi?
Chim âu dãi cát đất trời một con.

Chú thích:

- lữ 旅: đất khách, quê người, nơi ở trọ, khách trọ, thứ tự...
- thư 書: sách, ghi chép, thư ơn, viết Kinh Thư (trong tứ thư của văn học cổ Trung Hoa).
- hoài 懷: nhớ, mối lo nghĩ trong lòng, ôm, mang, về, lại, yên ủi...
- tế thảo 細草: cỏ nhỏ nhắn lại mịn màng. (tế: nhỏ, mịn, tinh xảo, tinh tế...)
- vi phong ngạn 微風岸: gió nhỏ và nhẹ thổi lướt ven bờ song hay bờ đê. ( vi: rất nhỏ, mầu nhiệm, nhỏ nhắn, ẩn khuất...)
- nguy 危: cao chất ngất, cao mà nguy hiểm gọi là nguy (ngược lại là an 安), nguy cấp, không an toàn, sao Nguy trong Nhị thập bát tú...
- tường 檣: cột buồm hay cái sào dài...
- thùy 垂: rủ xuống, buông xuống...
- dũng 涌: sóng lớn, nước bắn hay phun lên , nước suối
phun trào ,nước dâng lên...
- khởi 豈 : há ,há phải, há dám, há đâu, hay sao...
- trứ 著: nổi danh, có tiếng tăm, sáng sủa, soạn viết sách vở, sáng tác... Một âm là “trước”: đúng như thực (trước thực), mặc áo (trước y)...
- ưng 應: (ứng) nên thế, ứng đáp, hưởng ứng, phải nên...
- phiêu phiêu 飄飄: phiêu dạt, phiêu bạc, bồng bềnh, chênh vênh, chơi vơi, không ổn định, nhẹ nhàng...
- sở 所: nơi chốn, trú sở công sở, đồn, viện...
- tự 似: giống như, hình như, như, tương tự, cấp cho...

BÀI 67

TUYỆT CÚ NHỊ THỦ (KỲ HAI)                                             絕句二首其二

Giang bích điểu du bạch,                                                           江碧鳥逾白,
Sơn thanh hoa dục nhiên.                                                           山青花欲燃。
Kim xuân khan hựu quá,                                                            今春看又過,
Hà nhật thị quy niên?                                                                 何日是歸年?
Đỗ Phủ (năm 764)                                                                    杜甫

Dịch nghĩa:

Con sông xanh biếc (như màu ngọc bích) có đàn chim trắng phau đã (bay) vượt qua – Ngọn núi xanh thẳm, các loài hoa (rộ nở) như muốn rực lửa – Mùa xuân năm nay nhìn lại đã đi qua - Đúng ngày nào đây năm sẽ quay trở về?!

Tạm chuyển lục bát:

HAI BÀI TUYỆT CÚ (Bài hai)

Biếc xanh chim trắng qua sông,
Màu non xanh thắm, rực nồng bao hoa.
Xuân nay nhìn lại đã qua!
Ngày nào sẽ đúng năm đà về đây?!

Chú thích:

- tuyệt cú: bài thơ Đường luật có bốn câu gọi là Tuyệt cú hay Tứ tuyệt với ý từ theo tác giả rất ưng ý và cảm thấy hay.
- du: vượt qua, vượt ra bên ngoài, vượt hơn, trải qua, càng thêm...
- dục: ham muốn, mong cầu kỳ vọng, mềm mại, nhún nhường, sắp...
- nhiên: thắp đèn, đốt lên, nhen lửa lên 
- hựu: lại, lại nữa, càng thêm...
- thị: đúng như thế, là như thế, ấy thế, điều phải, điều đúng... (kinh Phật: A Nan Đà: Như thị ngã văn... Tôi nghe đúng như thế này...)
- quá: vượt, đi qua, đã qua, hơn, từng qua....

(Lần đến, THƠ ĐỖ PHỦ: bài 68, 69 và 70)

Dương Anh Sơn


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét