Thứ Hai, 8 tháng 4, 2024

Những Niềm Đau Ẩn Nấp

 


Bút ký - NHỮNG NIỀM ĐAU ẨN NẤP 
Điệp Mỹ Linh 

Chiếc phà từ từ rời bến Phả Lại. Nhìn ruộng vườn cằn cỗi hai bên bờ sông, Trang thở dài. Tiếng thở dài này so ra cũng chẳng khác chi tiếng thở ra não nuột của nàng khi nàng xuôi dòng sông Rhine bên Âu Châu vào một sáng mùa Hạ. Lúc ấy, nhìn những toà lâu đài cổ chễm chệ trên đỉnh núi cao, thấy những vườn nho xanh rì chập chùng, tiếp nối nhau trên mấy triền đồi thấp và những cánh đồng phẳng phiu vàng rực hoa hướng dương cùng những giỏ hoa đủ màu treo lủng lẳng trước mỗi ngôi nhà xinh xinh, Trang chợt so sánh phận người nơi đây và phận người nơi nàng đã phải lìa xa gần một phần tư thế kỷ. Tiếng harmonica rộn rã trên chiếc phà đầy đủ tiện nghi bên trời Âu chỉ có thể tạm thời xóa bớt niềm ưu tư trong lòng Trang chứ không thể nào khiến Trang phải bận tâm như ông Cụ trên chiếc phà cũ kỹ tại bến sông Phả Lại! 

Ông Cụ đội nón cối, mặc bộ bà ba đầy cáu bẩn và mang đôi dép râu”. Cụ đứng lẻ loi nơi góc phà, hai tay vịn ghi-đông” xe đạp, mắt Cụ trông hoang vắng lạ thường. Thỉnh thoảng Cụ quay nhìn ra sau rồi đưa tay vuốt nhè nhẹ một cái rương rất nhỏ bằng gỗ, được chạm trổ, sơn màu rêu và buộc chặt nơi yên sau. Từ ánh mắt, gương mặt, cử chỉ của Cụ cũng như hình thể cái rương nhỏ như thoát ra sự kỳ bí lạ lùng, kích thích sự tò mò của Trang. Nhìn cái rương một lúc, Trang chợt nhớ dường như nàng đã thấy vài cửa hàng ở Hà-Nội bán loại rương này. Trang dự tính sẽ tìm dịp thuận tiện để hỏi thăm Cụ xem loại rương này được dùng để làm gì? 

Phà cập bến. Trang bước nhanh về hướng ông Cụ dắt xe đạp, có chở cái rương nhỏ phía sau. Hai người im lặng đi bên nhau giữa những người vội vã xuống/lên phà. Ông Cụ thường nhìn xuống, vành nón cối che bớt một phần khuôn mặt khắc khổ và đôi mắt đăm chiêu. Theo cách Cụ dắt chiếc xe đạp, Trang nghĩ có lẽ trọng lượng cái rương không đáng kể. Vậy mà thỉnh thoảng Cụ lại sờ sợi dây chằn phía sau xem tình trạng cái rương. Hai người lên đến con dốc nhão nhoẹt bùn. Ngại sẽ không còn dịp thỏa mãn tính tò mò, Trang chờ đến lúc Cụ vừa đưa tay sờ cái rương, vội hỏi: 

- Thưa Cụ, cái rương đó đựng cái chi mà từ hồi trên phà cháu đã thấy Cụ nâng niu, quyến luyến một cách hết sức đặc biệt vậy? 

Ông Cụ thoáng giật mình, không ngờ Cụ bị để ý kỹ như vậy. Nhưng qua giây phút bất ngờ đó, nét mặt của Cụ trở lại u buồn. Cụ nhìn Trang. Nghe giọng nói và thấy nhân dáng, Cụ nghĩ Trang là du khách nước ngoài”. Cụ phân vân, không biết có nên nói ra nỗi lòng thầm kín của Cụ cho một người lạ biết hay không. Chần chừ một chốc, Cụ thở ra, khẽ đáp: 

- Hài cốt của thằng con tôi! 

Trang giật mình: 

- Ô, cháu... cháu xin lỗi Cụ! 

- Có gì đâu mà lỗi với phải. Vì cô là người miền Nam và lại từ nước ngoài” về nên cô không biết, chứ ở đây, thấy cái này – Cụ hơi xoay mặt ra sau, xoa nhẹ cái rương – họ biết liền. 

Thấy ông Cụ đã không phiền mà còn tỏ ra cởi mở, Trang lại hỏi: 

- Có lẽ con của Cụ mất trong thời chiến tranh, bây giờ Cụ cải táng, phải không, thưa Cụ? 

- Không. Cháu nó mất sau khi nước nhà thống nhất mới khổ chứ, cô! 

- Sao mà tội quá vậy, Trời! 

Từ ngày được tin con của Cụ mất cho đến nay chưa bao giờ Cụ dám để lộ sự bất mãn với bất cứ ai; vì Cụ ngại đến tai chính quyền thì phiền. Nhưng bây giờ nghe Trang hỏi, Cụ nghĩ, Trang không biết Cụ là ai và rồi Trang cũng sẽ chẳng ở lại đây để nói lại với ai cả, cho nên,  Cụ bùi ngùi thố lộ nỗi niềm: 

- Vợ chồng tôi nghèo, lại hiếm muộn, chỉ sinh được mỗi mụn con. Nó vừa nhớn nhớn một tý là vợ chồng tôi gửi nó ra Hải-Phòng để bác nó nuôi, cho ăn đi học. Năm 1954, gia đình bác nó di cư vào Nam, đem nó theo. Mấy mươi năm bặt tin, đến khi nước nhà thống nhất, tôi tìm ra được ông anh thì mới biết thằng con của tôi đã bị cộng sản Việt Nam (csVN) bắt/giam tại trại cải tạo ở Lạng-Sơn. Vợ chồng tôi đợi đến mùa bắp mới mong có tiền đi Lạng-Sơn tìm con. Nhưng, cô ơi! Bắp chưa kịp trổ hoa thằng con của tôi đã chết trong tù! 

Trang bối rối, không ngờ nàng vô tình khơi động nỗi đau thương trong lòng người đàn ông khốn khổ này! Sau một thoáng im lặng để nén xúc động, Trang than: 

- Tội nghiệp quá! Cuộc chiến chấm dứt lâu rồi nhưng di hại của nó chưa biết đến bao giờ mới vơi, phải không, thưa Cụ? 

- Ngày còn chiến tranh thì khổ vì bom đạn, nghèo đói và chia lìa, nhưng còn hy vọng là sẽ được gặp lại con. Bây giờ hòa bình mấy mươi năm rồi mà đói thì vẫn hoàn đói, nghèo thì cứ tự do” nghèo, còn con thì chẳng còn! 

Trong khi Trang tìm chưa ra lời để xoa dịu nỗi đắng cay trong lòng ông Cụ thì Ninh hướng dẫn viên du lịch bước đến, giọng hấp tấp: 

- Cô! Cô đi nhanh lên. Cháu tìm cô từ nãy giờ. Mọi người lên xe cả rồi. 

Ngồi trên xe, nhìn lại bến phà Phả-Lại, Trang thấy ông Cụ đang còng lưng trên chiếc xe đạp. Sau lưng đeo nặng dĩ vãng đau buồn, trong lòng ôm kín niềm mất mát lớn lao và trước mặt là chuỗi ngày cô quạnh sắp đến của tuổi già, Trang không hiểu cuộc đời của những người như ông Cụ – thuộc cả hai miền Nam Bắc – rồi sẽ ra sao! 

Chiếc xe vẫn lắc mạnh như con tàu đang vặn mình theo từng con sóng dữ, nhưng tâm hồn của Trang lại êm ả nhờ những ruộng bắp xanh rì và những luống bắp cải thẳng tắp, màu xam xám, dọc hai bên đường. Thấy nhiều phụ nữ tát nước bằng cái gàu cột vào ba thanh tre, Trang chợt nhớ những người đàn bà lam lũ ở làng Sơn-Tịnh thời Bố của nàng theo kháng chiến chống Tây. Từ hình ảnh tác nước cùng câu chuyện thương tâm của ông Cụ gặp ở bến phà, Trang thương mến ngay vùng đất lạ này! 

Xe chạy ngang trụ cây số, Trang thấy ghi thị-xã Uông-Bí. Không hiểu thị-xã Uông-Bí trù phú và đông đúc như thế nào, nhưng dọc hai bên tỉnh lộ, Trang thấy nhà gạch san sát và rất nhiều nhà lầu mới xây, tạo nên hai dãy phố vui. Bất ngờ Trang thấy vài nhóm người mặc quần áo rất hợp thời trang Âu-Mỹ, khoác tay nhau đi rểu rểu trước những đôi mắt thèm thuồng của nhiều người. Trang quay sang hỏi Ninh: 

- Ninh ơi! Mấy người đi rảo rảo đó có phải là du khách không, Ninh? 

- Dạ, có người là Việt-Kiều thứ thật, có người vượt biên, ở lại Hồng-Kông hoặc đảo nào đó một thời gian rồi bị trả về. 

Trang chuyển đề tài: 

- Ninh đã vào Nam lần nào chưa? 

Ninh cười, lắc đầu. Chú tài xế chen vào: 

- Cháu vào rồi. Cháu vào rồi. Úi giời! Không ngờ được! Không ngờ được! 

Trang ngạc nhiên: 

- Anh vào hồi nào, lâu chưa? 

Chú tài xế hơi quay về phía Trang, vỗ nhẹ bàn tay phải lên ngực, đáp: 

- Cháu vào tiếp thu năm 75 chứ hồi nào! 

Trang sa sầm nét mặt, cảm thấy tê tái trong hồn! Vì bận nhìn phía trước để lái xe, chú tài xế không nhận biết được sự xúc động của Trang, cho nên, chú tiếp: 

- Đáng nhẽ, theo kế hoặch, chúng cháu vào tiếp thu Saigon sớm hơn nữa kia. Nhưng tại Xuân-Lộc, gặp cánh quân của tướng… tướng gì nhẩy? 

Nghe chú tài xế gọi Saigon chứ không gọi là thành phố Hồ-Chí-Minh, Trang cảm thấy vui vui, muốn nhắc chú tài tên vị tướng miền Nam chỉ huy trận Xuân-Lộc là Tướng Lê-Minh-Đảo. Nhưng chợt nhớ chú tài xế là ai, Trang im luôn. Chú tài xế tiếp: 

- Lâu quá cháu chả nhớ. Nhưng cánh quân ấy đánh rát lắm cô ạ! 

- Khi vào đến Saigon, cảm giác đầu tiên của anh như thế nào? 

- Cần gì phải vào đến Saigon, cô! Mới đến Hàng-Xanh là chúng cháu đã sửng sốt, ngỡ ngàng dzồi! 

- Tại sao? Cái gì làm cho anh sửng sốt, ngỡ ngàng? 

- Hiện đại. Hiện đại vô cùng! Cái gì cũng tối tân, hiện đại. 

Bất ngờ chú tài xế hơi quay mặt nhìn Trang, tiếp: 

- Thế năm bẩy nhăm “đồng chí”… ơ… ơ… quên, cô, cô ở đâu? 

Vì không dám để lộ tông tích, Trang ngập ngừng, nói dối: 

- Dạ, dạ… ở… Huế. 

- Thảo nào cháu nghe có vài tiếng cô phát âm lơ lớ. 

- Dạ, tại vì tôi chỉ Huế có… một nửa thôi. 

- Thế à! Thế chuyến này về cô ghé Huế chưa? 

- Dạ chưa. 

Giọng chú tài trở nên nghiêm trọng: 

- Cô phải ghé Huế thì mới hiểu rõ được lịch sử. 

- Dạ, lịch sử chi? Anh muốn đề cập đến những thảm cảnh chiến tranh ở miền Trung như đại lộ kinh hoàng hoặc Mỹ-Lai, hoặc Tết Mậu Thân, phải không? 

Chú tài quay sang Trang với ánh mắt ngạc nhiên rồi nhìn thẳng phía trước: 

- Đại lộ kinh hoàng là đại lộ nào, cô? 

- Dạ, là quốc lộ I, đoạn từ Quảng-Trị vào Huế, khai sinh vào năm 1972. 

- Ô, thế thì cháu biết rồi. Nhưng trận 72 và vụ Mỹ-Lai so với trận Mậu-Thân chả thấm thía gì đâu! 

Trang chưa biết chú tài xế muốn đề cập đến cái gì? Lẽ nào chú tài xế lại đem chuyện “phe của chú” thảm sát đồng bào vô tội ở Huế vào năm Mậu-Thân kể cho nàng nghe? Trong khi Trang còn hoang mang, chú tài tiếp: 

- Bọn Mỹ dã man thật! Trận Mậu-Thân chúng giết chết cả mấy nghìn người, bộ đội và nhân dân ta” chôn không kịp, đành phải đào hố thật lớn, chôn tập thể đấy. 

Trang tròn mắt: 

- Ai nói với anh là năm Mậu-Thân Mỹ giết mấy ngàn người ở Huế? 

- Ai mà chả biết chuyện ấy, cô! Có thể năm Mậu-Thân cô còn bé hoặc kỳ này về cô chưa ghé Huế nên cô không biết; chứ nếu cô ghé Huế, đi tours, thì thế nào hướng dẫn viên du lịch cũng giải thích và chỉ những ngôi mộ tập thể ấy cho cô xem. 

- Anh nói sao? Hướng dẫn viên du lịch giải thích cho du khách Việt-Nam và cả du khách ngoại quốc như vậy à? 

- Vâng. Đó là sự thật của lịch sử thì mình cũng nên phổ biến cho cả thế giới biết chứ, phải không, cô? 

Trang nghẹn! Cả thế giới đều biết và phim ảnh cũng như sử sách đã ghi lại cuộc tổng công kích năm Mậu-Thân do csVN chủ xướng; vậy mà họ bưng bít tài tình cho đến nỗi thuộc cấp của họ – những người không trực tiếp tham chiến trận Mậu-Thân – cũng không hay! 

Trong khi Trang cảm thấy không vui, chú tài xế tiếp: 

- Để chiều về cháu chạy ngang phố Khâm-Thiên cho cô xem vết tích của thời B-52 rải thảm. 

Trang lại ngạc nhiên: 

- Ủa, tôi tưởng Mỹ chỉ thả bom những khu vực quân sự thôi chứ. 

Chú tài cười thành tiếng: 

- Thời chiến ở đâu không là căn cứ quân sự, cô? Cứ mỗi nhà là một căn cứ quân sự; vì nhà nào cũng có con em đi bộ đội cả. 

Trang lặng im, tựa lưng vào ghế, thầm nghĩ đến câu nói của ông Dư – thân phụ của nàng – ngày ông Dư mới sang Mỹ theo diện H.O: “… Sau khi từ trại Đồng-Găng bị chuyển ra A-30, mỗi chiều, sau giờ lao động, Ba dạy nhạc cho mấy chú vệ binh trẻ. Nhờ thường xuyên trực tiếp chuyện trò với họ Ba mới nhận ra rằng họ cũng đáng thương như những người tù miền Nam. Điểm khác nhau giữa họ và tù miền Nam là họ có khí giới và tù miền Nam có văn hóa. Vì thiếu văn hoá cho nên họ dễ bị tuyên truyền, dễ bị đầu độc và dễ bị bưng bít. Do đó họ thường có những suy xét và nhận định sai lầm. Ba nghĩ họ cũng chỉ là nạn nhân của một cơn lốc tàn khốc nhất trong lịch sử Việt-Nam cận đại.

* * * * * 

Từ Bãi-Cháy, sau khi nhận đủ số khách cho một chuyến hải trình riêng biệt, đoàn ghe sơn phết lòe loẹt bắt đầu rời bến. Ninh ngồi cạnh Trang, chỉ về hướng trái: 

- Thành phố Hạ-Long đấy. Cô ra ngắm kẻo mai mốt không có dịp trở lại rồi tiếc. 

Trang bước ra, ngồi gần mũi ghe. Trong từng cơn gió nhẹ của một ngày chớm Đông, ngoài tiếng máy ghe vi vu, không còn bất cứ âm thanh nào khác. Ánh nắng chan hòa cả một vùng biển lặng. Mấy hải đảo nhỏ quanh đảo Cát-Bà mập mờ phía xa. Đối diện với đảo Cát-Bà, về phía trái của Bãi-Cháy, là thị xã Hòn-Gai, nay đổi là thành phố Hạ-Long, với từng dãy cao ốc san sát nhau, dọc bờ biển. Thành phố Hạ-Long không có những tòa nhà xây trên mặt nước, không có những thánh đường nguy nga với tháp chuông cao vời vợi, không có tiếng sóng vỗ lách tách quanh ngôi nhà cổ như ở Ý-Đại-Lợi – nơi nhạc sư Mozart đã lưu trú một thời – và cũng không có cả tiếng Accordéon dìu dặt theo nhịp sóng nhấp nhô quanh mấy chiếc du thuyền nhỏ, nhưng sao Trang vẫn cảm thấy vui thích và muốn ghé thăm một lần. 

Ý tưởng ghé thăm thành phố Hạ-Long vừa lóe lên, Trang chợt nhận ra sự chộn rộn” trong nhóm du khách. Theo dòng âm thanh thì thầm của nhiều người và những ngón tay đang chỉ về phía xa, Trang thấy hai mỏm đá mang hình thể như hai chú gà đâu mặt vào nhau. Đó là Hòn Gà Chọi. Nhiều du khách đưa máy ảnh lên chụp hình. Ninh vừa nói vừa chỉ về hướng trái: 

- Cô ơi! Hòn Đầu Người đấy. 

Trang nhận rõ những góc cạnh của khối đá mang dạng vừng trán, ổ mắt, sóng mũi, môi và cằm. Ninh tiếp: 

- Chốc nữa cháu sẽ chỉ cô xem một gộp đá có hình con chó. 

- Giống thật không, hay là mình phải vận dụng trí tưởng tượng? 

- Thì cô cứ nhìn xem rồi sẽ biết. 

Chỉ một chốc sau, Trang thấy một tảng đá cỡ bằng hình người, đứng im lìm cạnh một hải đảo nhỏ. Ghe vừa qua khỏi tảng đá một khoảng ngắn, Ninh gọi: 

- Cô! Cô nhìn lui đi, xem tảng đá ấy trông có giống con chó không? 

Trang quay lui, hơi sửng sốt. Cũng một tảng đá, nhìn từ phía đối diện, Trang chẳng thấy có gì lạ; bây giờ, ở một góc cạnh khác, trong tầm mắt nàng là hình tượng một chú chó đang ngồi, hai chân trước khoanh ngang ngực. 

Giữa khung cảnh êm đềm, vắng vẻ bỗng Trang thấy xa xa vài chiếc thuyền nhỏ. Điều khiến Trang “nhức mắt” là mấy cô chèo thuyền đều mặc quần đen, áo bà ba nhưng lại mang bao tay trắng, bằng vải, loại mỏng, ngắn đến cườm tay cũng có và loại dài đến khuỷu tay cũng có. Trang chỉ nhóm thuyền, hỏi Ninh: 

- Họ làm gì ở đó, Ninh? 

- Đấy là hang Luồn. Ghe mình sẽ ngừng lại. Du khách sẽ xuống mấy chiếc ghe bé xíu ấy để đi thăm hang Luồn. 

- Tại sao vào hang Luồn thì phải mang loại găng tay dành cho những dịp lễ lạc hoặc dạ hội? 

- Dạ, họ mang cho khỏi hư tay đấy ạ! Loại găng tay ấy của Trung-Quốc bán thành ra không mắc lắm đâu. 

Ghe lớn vừa giảm tốc lực, cả nhóm thuyền nhỏ chèo nhanh đến. Du khách lần lượt bước xuống thuyền. Nhìn quanh chiếc ghe, không thấy bất cứ một cái phao nào cả, Trang hơi do dự. Ninh dục: 

- Không sao đâu, cô vào xem cho biết. 

Ninh quay sang nhóm ghe, tiếp: 

- Này, chèo tay thôi nhá. Đừng mở máy tụi Tây nó sợ. 

Đoàn ghe từng chiếc, từng chiếc tiếp nối nhau tiến thẳng đến bờ đảo rồi mất hút. Khi ghe đưa Trang đến gần bờ đảo nàng mới thấy một cửa hang hình chữ nhật, thật thấp, rộng và dài. Từ cửa hang bên này, xuyên qua lòng núi, Trang thấy nước nơi cửa hang bên kia xanh như màu mạ non. Ghe chầm chậm luồn vào hang. Tiếng róc rách của những làn sóng nhỏ từ mái chèo lan xa, va vào vách đá là âm thanh duy nhất trong khoảng không gian tĩnh lặng nơi đây. 

Qua khỏi cửa hang, mấy cô chèo thuyền đều gác mái chèo. Thuyền trôi dật dờ. Trang nhìn quanh, chỉ thấy núi vây kín, tạo nên một cái hồ tròn trịa. Quanh bờ hồ đều là đá và cây cằn cỗi; chỉ có một khoảng hẹp gần cửa hang là cát. 

Nếu một lần nào đó Trang đã xúc động, bàng hoàng trước sự hùng vĩ của hồ Diablo ở Seattle thì giờ đây Trang cũng lắng hồn vào cõi tĩnh lặng của một phần quê hương mà suốt hai phần ba cuộc đời, nàng chỉ biết tưởng tượng qua những tác phẩm của các nhà văn di cư. 

Trên đường trở lại Bãi-Cháy, sau khi giải đáp vài thắc mắc của du khách, Ninh nhắc Trang khoác áo lạnh, vì trời trở gió. Từ sáng đến giờ, thấy Ninh ân cần với nàng, Trang có cảm tình, vội hỏi: 

- Cô có một thắc mắc, muốn hỏi Ninh, được không? 

- Dạ được chứ. 

- Cô thấy tại các nước khác, khi hướng dẫn du khách ngoạn cảnh, hướng dẫn viên du lịch thường cầm micro giải thích cho du khách hiểu về nguồn gốc, lịch sử hoặc xuất xứ của một cảnh trí. Tại sao ở đây họ không tổ chức như vậy? 

- Ngành du lịch của nước mình còn phôi thai lắm, cô! Hơn nữa phải có hướng dẫn viên chuyên nghiệp, Anh văn lưu loát cơ. 

- Từ sáng đến giờ tôi nghe Ninh nói tiếng Anh “cừ” lắm mà! 

- Cám ơn cô. Ở đại học cháu đâu có học ngành du lịch. 

- Vậy Ninh học ngành ? 

- Dạ, cháu học về tài chính, ngân hàng. 

- Ninh tốt nghiệp rồi, phải không? Ngành tài chính, ngân hàng học mấy năm? 

- Dạ, học năm năm. Cháu ra trường gần hai năm rồi nhưng kiếm việc làm không ra – vì không có “gốc/rể” – nên cháu phải làm tạm nghề này. 

- Làm hướng dẫn viên du lịch lương khá không, Ninh? 

- Dạ, tương đương hai đô-la một ngày. Nhưng phải có chuyến đi, người hướng dẫn mới được trả lương chứ không phải ngày nào cũng được trả hai đô-la. 

- Một học sinh muốn tiếp tục bậc đại học phải hội đủ những điều kiện nào? 

- Dạ, sau lớp 12 phải thi ngoại ngữ, văn và toán. Thi đậu xong thì kê khai lý lịch cá nhân. Nếu được chấp nhận, hai năm đầu sinh viên phải học tổng quát rồi sau đó mới học chuyên ngành. 

- Để được theo đuổi bậc đại học, mỗi sinh viên phải cần khoảng bao nhiêu tiền Việt-Nam một tháng? 

- Dạ, khoảng một trăm nghìn. 

- Từ lớp mấy học sinh mới học ngoại ngữ? Và ngoại ngữ nào thông dụng nhất? 

- Dạ, hồi trước thì lớp 7; ngoại ngữ thông dụng nhất là tiếng Nga. Nhưng sau này tiếng Anh thông dụng hơn. Và kể từ năm 1994, học sinh được dạy Anh văn ngay từ lớp Một. 

- Ở Hà-nội có trường ngoại ngữ nào Ninh cho là khá? 

- Trường Nội-Thành có nhiều giáo sư chuyên dạy nhiều sinh ngữ khác nhau nên khá lắm. Còn trường Ngoại-Thành ít giáo sư nên chỉ được chọn Anh hoặc Pháp văn thôi. Mà cô ơi! Ngay như những người xuất thân từ trường đại học ngoại ngữ, sau khi tốt nghiệp, cũng phải học Anh văn thêm. 

Trang chưa kịp hỏi thêm, Ninh đã tiếp: 

- Từ nãy giờ cô hỏi cháu hoài; bây giờ cô cho cháu hỏi cô một câu, nhé! 

Trang đáp “Okay”. Ninh tiếp: 

- Cô có phải là nhà báo không? 

Mặc dù không phải là nhà báo, Trang cũng hơi hoảng, vội lắc đầu: 

- Không. Không. Tại sao Ninh lại hỏi cô câu đó? 

- Xin lỗi cô nhá. Tại vì cô là đàn bà, du lịch một mình, lại có cách khai thác người đối thoại hết sức tự nhiên và tài tình. 

- Trong xã hội Âu-Mỹ, tinh thần tự lập của phái nữ rất cao và cuộc sống của phụ nữ không bị gò bó lắm. Họ tìm mọi cách để không tùy thuộc vào nam giới. Ở Việt-nam, một người đàn bà đi chơi xa, đó là một điều lạ; nhưng ở Âu-Mỹ, đó là chuyện thường. Còn về việc cô hỏi Ninh vài vấn đề có tính cách tổng quát cũng chỉ là sự tò mò dễ hiểu của một người xa quê hương quá lâu. Vậy thôi! 

Ninh im lặng. Dường như Ninh có vẻ tiếc là chàng đã nhẹ dạ để bị Trang “khai thác”. Không muốn bị Ninh hiểu lầm, Trang chuyển đề tài: 

- Gần Noel rồi mà sao cô không thấy ai trang hoàng gì cả vậy, Ninh? 

- Bao nhiêu năm rồi, Hà-Nội đâu có trang hoàng Noel. 

- Vậy à! Ở Saigon Noel đẹp lắm. Họ tổ chức vô cùng trang trọng. 

- Bất cứ địa hạt nào, ngay cả sách báo, điện ảnh, âm nhạc, Hà-Nội cũng đi sau Saigon cả, cô ạ! 

- Nhạc Rock và Rap có du nhập vào Hà-Nội được không, Ninh? 

- Dạ có, nhưng không thành công và không bằng trong Nam. 

- Ninh và những người trẻ nghĩ gì về âm nhạc miền Nam trước 75, mà người Bắc gọi là nhạc vàng? 

- Cháu xin lỗi cô nhá! Chỉ những người cỡ tuổi cô mới thích nhạc vàng; còn chúng cháu… 

Ninh lắc đầu, cười, dừng lại ở đó. Trang nghĩ rằng Ninh trả lời rất thật; vì mấy hôm nay ghé vào tiệm bán băng nhạc và sách báo, Trang cũng được mấy cô cậu bán hàng cho biết như vậy. Trang lại hỏi: 

- Về sách báo, Ninh nhận xét như thế nào về nhà văn phản kháng Dương-Thu-Hương? 

- Dạ, Dương-Thu-Hương là ai, thưa cô? 

- Ninh lớn lên tại Hà-Nội, tốt nghiệp đại học, vậy mà Ninh không biết Dương-Thu-Hương là ai, lạ thật! 

Nét mặt Ninh vẫn bình thản, không lộ tý bối rối nào cả; điều đó cho Trang hiểu rằng Ninh không nói dối. Ninh đáp: 

- Có thể những người đồng trang lứa với bà ấy biết bà ấy; còn chúng cháu chỉ muốn chôn vùi quá khứ, nhất là một quá khứ đầy lỗi lầm và thù hận, để hướng về ngày mai. 

- Đa số trí thức trẻ ở ngoại quốc cũng nghĩ như Ninh. 

- Riêng cô, cô nghĩ như thế nào? 

- Nói thật với Ninh, ngày chú bị đày ra Bắc, cô uất hận vô cùng. Những lần vượt đèo, trèo núi đi thăm chú, ngoài chút thực phẩm và thuốc men, cô cũng mang theo niềm thống hận. Khi phải bỏ chú lại để cùng các em đói khát, lênh đênh trên chiếc thuyền nhỏ để tìm lẽ sống, lòng cô cũng đầy oán hờn. Nhưng dạo này, nhờ đọc những cuốn sách người ngoại quốc viết về Hà-Nội cô mới thấy rằng không phải tất cả người Việt sống ngoài Bắc đều là cộng-sản. Khi thăm viếng nhiều nơi quanh Hà-Nội và tiếp xúc với người Hà-Nội, cô mới nhận ra rằng Hà-Nội và người Hà-Nội cũng là nạn nhân của một tập thể đầy ác tính. 

Ninh xúc động, lặng lẽ nhìn Trang. Một lúc sau Ninh đáp: 

- Cảm ơn cô đã nghĩ như thế! 

Trang mỉm cười, nhìn Ninh rồi nhìn ra biển khơi. Tự dưng Trang nhớ lại chuyến hải hành buồn thảm dọc theo miền duyên hải Trung phần, trên Dương-Vận-Hạm Nha-Trang, HQ 505, vào những ngày cuối tháng Ba/đầu tháng Tư năm 1975. Thời gian đó nước mắt của Trang đã nhạt nhòa và tim nàng đã quặn thắt theo từng cơn hấp hối của những thành phố thân yêu! 

Trong hơn một phần tư thế kỷ qua, không thể nào Trang có thể biết được những phần đất ấy đã thật sự hồi sinh hay chưa; nhưng bây giờ, nhìn quanh vùng quê hương xa lạ này, Trang đã nhận ra được sự hồi sinh muộn màng!

ĐIỆP-MỸ-LINH

(Bài này được viết sau chuyến du lịch Việt Nam, giữa thập niên 90 của thế kỷ 20) 


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét