Chủ Nhật, 16 tháng 3, 2025

Thơ Chữ Hán Của Nguyễn Du - Bài 10, 11 Và 12

 


THƠ CHỮ HÁN CỦA NGUYỄN DU - BÀI 10, 11 VÀ 12
Thầy Dương Anh Sơn

THƠ CHỮ HÁN CỦA NGUYỄN DU
TẬP III : BẮC HÀNH TẠP LỤC (北行雜錄)

Bài 10

GIÁP THÀNH MÃ PHỤC BA MIẾU                                       夾城馬伏波廟

Lục thập lão nhân cân lực suy,                                                   六十老人筋力衰
Cứ an bị giáp tật như phi.                                                           據鞍被甲疾如飛
Ðiện đình chỉ bác quân vương tiếu,                                           殿庭只博君王笑
Hương lý ninh tri huynh đệ bi.                                                   鄉里寧知兄弟悲
Ðồng trụ cận năng khi Việt nữ,                                                  銅柱僅能欺越女
Châu xa tất cánh lụy gia nhi.                                                      珠車畢竟累家兒
Tính danh hợp thướng Vân Đài hoạ,                                          姓名合上雲臺畫
Do hướng Nam trung sách tuế thì.                                             猶向南中索歲時

Dịch nghĩa:

Ở tuổi sáu mươi đã già lão, sức lực suy yếu, - Thế mà ông vẫn lên yên ngựa, khoác áo giáp vội vàng cưỡi ngựa như bay! - Nơi cung điện chỉ để lấy nơi vua tiếng cười. - Ở nơi quê nhà anh em xót xa cho sự yên lành của ông. (c1- 4)
Trụ đồng kia lừa được đàn bà nước Việt, - Chiếc xe chở ngọc ngà châu báu (từ phương Nam) đã để lại những hệ lụy cho con cháu ông. - Tên tuổi của ông xứng hợp để vẽ và ghi lại ở Vân Đài, - Sao lại đòi hỏi nước Nam hàng năm phải dâng cúng đồ tế? (c.5-8)

Tạm chuyển lục bát:

MIẾU MÃ PHỤC BA Ở GIÁP THÀNH

Sáu mươi già mỏi, người suy,
Lên yên mặc giáp vội phi tơi bời!
Cung đình vua nở nụ cười,
Anh em thương xót ở nơi quê nhà.
Trụ đồng gái Việt lừa qua,
Rốt cùng xe ngọc cháu nhà lụy lây.
Vân Đài tên xứng vẽ đây,

Sao đòi vật phẩm cúng bày phương Nam?

Chú thích :

- Mã Phục Ba 馬伏波: tức Mã Viện tự Văn Nguyên quê ở Mậu Lăng, Thiểm Tây bên Trung Hoa là danh tướng thời Đông Hán và là hậu duệ của Mã Siêu, Mã Đằng thời Tam Quốc nước Thục Hán (T.H.). Ông ta là kẻ đã gây ra nhiều đau khổ và chết chóc cho dân ta khi dẫn quân đánh dẹp cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng (40 sau TL) chống lại sự cai trị tàn bạo của thái thú Tô Định của nhà Đông Hán khiến Hai Bà Trưng phải tự trầm ở sông Hát (Hà Tây) để giữ tròn khí tiết (năm 43 sau TL). Sau chiến thắng trước hai phụ nữ kiên cường phương Nam, Mã Viện đã cho trấn áp và vơ vét khắp nước ta và đã cho chở về nhiều xe châu báu, sừng tê giác về Lạc Dương mà không báo cho triều đình của Hán Quang Vũ Đế. Y cũng rất xấc xược khi cho dựng một trụ đồng có đề chữ “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” (Trụ đồng ngã, nước Giao Chỉ sẽ bị diệt) để đe dọa sự nổi dậy của dân ta, đặt ở biên giới của hai nước tại vùng giáp Quảng Tây và Quảng Đông (biên giới xưa kia của nước ta và Trung Hoa về phía bắc của ải Nam Quan thời Lý, Trần, Lê nay lần hồi bị bọn xâm lược Trung Hoa lấn chiếm về phía nam Ải Nam Quan). Trong một lần đi đánh một bộ tộc tên là Ngột Lỗi ở vùng biên giới, Mã Viện cùng nhiều binh lính bị bệnh dịch mà mất. Vì chuyện tư riêng khi đánh nước ta vơ vét của cải cũng như làm chết nhiều quân lính khi đánh trận cuối cùng, Hán Quang Vũ Đế đã nghe lời cáo buộc tước hết bỗng lộc và thái ấp của ông. Công lao của Mã Viện không được ghi vào Vân Đài (xem bên dưới) như một công thần lớn. Mãi đến năm Hán Chương Đế (78) mới được giải oan và truy tặng tước Trung Thành Hầu.Riêng với dân tộc Việt Nam chúng ta ,không những các nhà nho yêu nước thương nòi như Nguyễn Du, tên tuổi của Mã Viện và việc đàn áp , giết chóc dân
ta một thời lịch sử sẽ không bao giờ quên tội ác của ông ta, hiện thân của thói xâm lược của bọn phương Bắc.
- cứ 據: đè xuống, nương nhờ, cậy vào, chiếm cứ, chứng cứ.
- cứ an 據鞍: lên yên ngựa phải gắng gượng, nương vào đai yên để leo lên. Chỉ sự già lão của Mã Viện.
- bị 被: khoác, mặc, đội vào.
- tật 疾: mau lẹ, nhanh chóng, vội vàng.
- bác 博: thông suốt, rộng lớn, để lấy,lấy được... Ví Dụ : “dĩ bác nhất tiếu 以博一笑”: để lấy một tiếng cười . Ở đây, Mã Viện gắng leo lên ngựa dẫn quân đi trận chỉ để lấy được tiếng vua cười khen là còn sung sức làm tướng!
- Câu 4: em họ Mã Viện là Thiếu Du ở Mậu Lăng thương xót cho ông anh tuổi đã lớn mà còn ham lập chiến công.
- Câu 5: tương truyền trụ đồng của Mã Viện dựng ở phía bắc ải Nam Quan giáp với Quảng Tây, nay thuộc Quảng Đông vừa để đe dọa, trấn áp dân Nam và vừa xác định biên giới của nước Hán “văn minh” và Giao Chỉ “man di” (mọi rợ, thô lậu, chưa được khai hóa) với ý khinh bỉ, kiêu ngạo, xấc xược của kẻ đã lừa được đàn bà Việt là Hai Bà Trưng không đồng cân sức. (khi 欺: lừa dối, làm nhục) khi xung trận.(Vị trí đặt trụ đồng xin xem C.T đầu tiên)
- Vân Đài 雲臺: Hán Quang Vũ Đế đã chọn lựa và vẽ 28 người có công ở gác Vân Đài. Mã Viện tuy có nhiều chiến công nhưng có sự cáo buộc của một số đình thần và vì con gái làm Hoàng Hậu nên vua Hán không cho vẽ vào Vân Đài.
- sách tuế 索歲: yêu sách, đòi hỏi phải cúng tế, dâng phẩm vật mỗi năm. Đây chỉ những ngôi miếu dọc đường đi mà bọn Hán xâm lược cho dựng để tôn thờ tên tướng xâm lược Mã Viện của Đông Hán, Trung Hoa.

Bài 11

MINH GIANG CHU PHÁT                                                      明江舟發

Tiêu cổ đông đông sơ xuất môn,                                                簫鼓鼕鼕初出門,
Vạn sơn trung đoạn nhất sà bôn.                                                萬山中斷一槎奔.
Phù vân sạ tán thạch dung sấu,                                                  浮雲乍散右容瘦,
Tân lạo sơ sinh giang thủy bồn.                                                 新潦初生江水渾.
Biệt hậu quan sơn tư đệ muội,                                                   別後關山思弟妹,
Vọng trung nham tụ kiến nhi tôn.                                              望中岩岫見兒孫.
Nhật tà mạc hướng Hoa Sơn quá,                                              日斜莫向華山過,
Phạ hữu thanh thanh trường đoạn viên.                                     怕有聲聲腸斷猿.

Dịch nghĩa:

Khi vừa ra khỏi cửa, tiếng sáo inh ỏi và tiếng trống vang lên thì thùng, - Một chiếc thuyền lướt vội giữa đoạn sông có muôn ngàn ngọn núi. - Đám mây trôi nổi bất chợt tan đi với dáng núi hao gầy, - Nước lũ mới về dâng ngập làm cho dòng sông bị vẩn đục.(c.1-4) - Ải quan cách trở ,nhớ anh em (ở quê nhà)sau khi từ biệt, - Nhìn những ngọn núi đá nhọn và núi đá tròn đầy như thấy con cháu.- Trời đã xế chiều, chớ vượt qua Hoa Sơn.- Sợ phải nghe tiếng kêu hú của loài vượn làm tan nát cõi lòng. (c.5-8)

Tạm chuyển lục bát :

THUYỀN BẮT ĐẦU Ở MINH GIANG

Vừa ra sáo trống thì thùng,
Con thuyền lướt vội muôn trùng nước non.
Tan mây chợt dáng đá mòn,
Lũ dâng vẩn đục ngập sông nước tràn.
Nhớ anh em, cách quan san,
Trông như con cháu đá nham, núi tròn.
Ngày tàn chớ vượt Hoa sơn,
Sợ nghe đứt ruột nát lòng vượn kêu!

Chú thích:

- phát 發: bắt đầu, khởi đi từ đây, bắn ra, mở ra.
- Minh Giang 明江: dòng sông nằm gần Hoa Sơn, Quảng Tây (T.H.).
- đông đông 鼕鼕: tiếng trống thì thùng, ầm ầm.
- sà 槎: thuyền gỗ nhỏ, bè gỗ, chặt, chém.
- bôn 奔:vội vàng, mau chóng, bôn ba.
- sạ 乍: bất chợt, bỗng nhiên.
- sấu 瘦: gầy ốm, xấu xí.
- lạo 潦: nước dâng ngập, lụt lội.
- bồn 渾: nước chảy ào ào, vẩn đục, hỗn độn, toàn bộ ,ngang bằng, bằng nhau.
- quan sơn 關山: cửa ải, núi non. Chỉ sự xa xôi cách trở.
- nham 岩: tương tự như 巖 vách núi hiểm yếu, đá nham từ núi lửa phun ra
- tụ 岫: đỉnh núi tròn.
- phạ 怕: sợ hãi.

Bài 12

NINH MINH GIANG CHU HÀNH                                          寧明江舟行

Việt Tây sơn trung đa giản tuyền,                                              粵西山中多澗泉,
Thiên niên hợp chú thành nhất xuyên.                                       千年合注成一川.
Tự cao nhi hạ như bát thiên,                                                      自高而下如潑天,
Than thượng hà sở văn?                                                             灘上何所聞?
Ứng long kích nộ lôi điền điền,                                                 應龍激怒雷田田,
Than hạ hà sở kiến?                                                                   灘下何所見?
Nỗ cơ kịch phát thỉ ly huyền,                                                     弩機劇發矢離絃,
Nhất tả vạn lý vô đình yên.                                                        一瀉萬里無停湮.
Cao sơn giáp ngạn như tường viên,                                           高山夾岸如牆垣,
Trung hữu quái thạch sâm sâm nhiên                                        中有怪石森森然.
Hữu như long, xà, hổ, báo,                                                         有如龍蛇虎豹
ngưu, mã la kỳ tiền,                                                                    牛馬羅其前,
Ðại giả như ốc, tiểu như quyền.                                                 大者如屋小如拳.
Cao giả như lập, đê như miên,                                                   高者如立低如眠,
Trực giả như tẩu, khúc như tuyền.                                             直者如走曲如漩.
Thiên hình vạn trạng nan tận ngôn,                                           千形萬狀難盡言,
Giao ly xuất một thành trùng uyên.                                           蛟螭出沒成重淵.
Dũng đào phún mạt nhật dạ tranh                                              湧濤噴沫日夜爭
hôi huyên,                                                                                   豗喧,
Hạ lạo sơ trướng phí như tiễn.                                                   夏潦初漲沸如煎.
Nhất hành tam nhật tâm huyền huyền,                                       一行三日心懸懸,
Tâm huyền huyền đa sở úy.                                                       心懸懸多所畏.
Nguy hồ đãi tai cốt một vô để,                                                   危乎殆哉汨沒無底,
Cộng đạo Trung Hoa lộ thản bình.                                             共道中華路坦平.
Trung Hoa đạo trung phù như thị,                                              中華道中夫如是,
Oa bàn khuất khúc tự nhân tâm.                                                窩盤屈曲似人心.
Nguy vong khuynh phúc giai thiên ý,                                        危亡傾覆皆天意,
Cao tài mỗi vị văn chương đố.                                                   高才每被文章妒.
Nhân nhục tối vi si mị hỷ,                                                          人肉最為魑魅喜,
Phong ba ná đắc tận năng bình!                                                 風波邢得儘能平.
Trung tín đáo đầu vô túc thị,                                                      忠信到頭無足恃,
Bất tín “xuất môn giai úy đồ”!                                                   不信出門皆畏途.
Thí vọng thao thao thử giang thủy!                                            試望滔滔此江水.

Dịch nghĩa:

Phía tây nước Việt có rất nhiều suối khe, - Trải qua cả ngàn năm họp
lại thành một con sông. - Từ trên trời cao, nước như tuôn ào xuống, - Ở trên đầu thác nghe điều gì chăng? (c.1-4)
- Con rồng nổi giận mạnh mẽ như sấm động đùng đùng, - Còn bên dưới thác ghềnh thấy gì chăng? - Mũi tên rời dây nỏ bắn mạnh đi, - Một dòng nước dốc hết xuống muôn dặm chẳng bao giờ ngừng! (c.5-8)
- Dãy núi cao chạy sát bờ như bức tường chặn lại, - Ở giữa đó có những phiến đá dáng dấp kỳ lạ dày đặc. - Có (những phiến đá) hình dáng như con rồng, con rắn, con cọp, con báo, con trâu, con ngựa giăng bày trước mặt, - Có những tảng đá to như tòa nhà và có hòn nhỏ như bàn tay. (c.9-12) 
Có hòn đứng cao sừng sững, có hòn cúi xuống như đang ngủ, - Có hòn như đang chạy thẳng, có hòn cong vòng như xoáy nước. - Ngàn hình và muôn dáng vẻ khó nói cho hết được, - Con thuồng luồng và con rồng có vẩy màu vàng ra vào nổi lên chìm xuống nhiều lần tạo thành vực sâu. (c.13-16) 
- Sóng mạnh mẽ làm tung bọt nước suốt đêm ngày như đánh nhau ầm ì, - Mùa hè như nước lũ dâng lên sục sôi như sắc nồi thuốc. – Một lần đi ba ngày mà lòng dạ rối bời, phập phồng, - Lòng dạ phập phồng với nhiều nỗi lo sợ. (c.17-20)
- Nguy hiểm lắm thay, chìm sâu không thấy đáy! - Nghe nói đường Trung Hoa bằng phẳng thanh thản. - Thế mà đường Trung Hoa như thế này đây: - Quanh co, che khuất tựa như lòng dạ con người. (c.21-24) 
- Hiểm nguy mất mát hay đổ nghiêng đều do ý của trời, - Người tài giỏi giang thường bị văn chương ghen ghét. - Thịt người thần quỉ, quái vật rất thích thú, - Làm thế nào để dẹp tan hết sóng gió đây.(c.25-28) 
- Lòng dạ ngay thẳng trung tín gặp khi như thế cũng không đủ đối phó, - Chẳng tin vào câu nói: “ra khỏi cổng là con đường đáng sợ hãi”. - Hãy thử nhìn xem dòng nước sông chảy cuồn cuộn này
đây! (c.29-31)

Tạm chuyển lục bát:

THUYỀN ĐI TRÊN SÔNG NINH MINH

Lắm khe núi Việt phía tây,
Ngàn năm rót xuống thành đây một dòng.
Từ cao đổ xuống nước tuôn,
Có nghe trên thác gì không hỡi nào?
Tiếng rồng sấm giận ào ào,
Thác ghềnh bên dưới thấy sao những gì?
Bắn nhanh dây nỏ tên đi,
Nước tuôn muôn dặm, chẳng khi nao dừng!
Núi cao bờ sát dựng tường,
Ở trong lắm đá lạ lùng bày giăng.
Ngựa, trâu, beo, cọp, rồng, trăn,
To như nhà lớn, nhỏ bằng nắm tay.
Đứng cao ngất, thấp ngủ quay,
Chạy nhanh hòn thẳng, suối xoay cong vòng!
Dáng hình khó nói nghìn muôn,
Rồng vàng ra vực, thuồng luồng lặn sâu!
Đêm ngày bọt sóng phun ào,
Mùa hè nước lũ dâng trào sục sôi.
Ba ngày đi dạ rối bời,
Nhiều lo nhấp nhỏm tơi bời lắm nao.
Hiểm nguy đáy nước chìm sâu,
Trung Hoa nghe nói đường sao phẳng bày.
Trung Hoa như những đường này,
Quanh co uốn khúc ở ngay lòng người.
Lật nghiêng nguy hiểm do trời,
Văn chương ghen ghét những người giỏi giang.
Thịt người thần quái rất ham,
Làm sao sóng gió cho tan hết này!
Gặp khi chẳng cậy lòng ngay,
Không tin: Ra cửa hãi thay con đường!
Thử nhìn: cuồn cuộn dòng tuôn!

Chú thích:

- Ninh Minh Giang 寧明江: tức Minh Giang (xem bài 11).
- Việt 粵: dùng như chữ Việt 越 ,tên vùng đất cổ xưa nơi dân Bách Việt cổ sinh sống ở giữa hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây (T.H.).Về sau bị bộ tộc Hán giành giật đất đai và nhiều bộ tộc Việt bị đẩy xuống phía nam trong đó có bộ tộc thuộc dòng Bách Việt hình thành nước Việt ở lưu vực sông Hồng; vượt qua, đến. Nguyễn Du trong vai trò sứ giả triều đình Huế sang Trung Hoa vẫn giữ lòng hoài niệm về một nước Việt cổ xưa ở đất Lưỡng Quảng. Chính người Trung Hoa vẫn gọi vùng này là Việt (đất có nguồn gốc của người Việt)
- giản 澗: khe, suối ,chỗ có hai vùng núi giữa có nước cũng gọi là giản...
- chú 注: rót vào, đổ xuống, tập trung lại...
- bát 潑: nước vọt hay bắn ra, xông xáo, ngang ngược, hung tợn...
- ứng long 應龍: con rồng có cánh bay được.
- kích 激: chặn nước làm nước bắn vọt lên, nước chảy xiết.
- điền điền 田田: tiếng động ầm ầm..
- nỗ cơ 弩機: lẩy của cây nỏ.
- kịch 劇: quá lắm, rất nhanh chóng, phức tạp...
- tả 瀉: nước rót xuống, mô tả, sao chép, đặt để.
- yên 湮: tắc, lấp dòng nước chảy.
- sâm sâm 森森: dày đặc, rậm rạp.
- la 羅: bày la liệt, bày bố khắp nơi,giăng mắc mọi nơi...
- giao 蛟: con thuồng luồng, đồng loại với hình tượng con rồng thường gây ra giông ba, bão táp...
- ly 螭: con rồng có vẩy màu vàng...
- xuất một 出沒: nhô ra và lặn xuống, ẩn hiện.
- uyên 淵: vực sâu.
- hôi huyên 豗喧: tranh nhau gây ra sự ầm ĩ, ồn ào.
- phí 沸 : sôi sung sục, sắc thuốc sôi lên.
- tiễn 煎: ngâm dầm, dầm nước.
- huyền huyền 懸懸: nhấp nhỏm, rối bời, lòng nhớ nhung do xa cách, lòng dạ không ổn định.
- câu 21-24: ít nhiều Nguyễn Du cũng cho chúng ta thấy được sự tráo
trở, quanh co của nước lớn Trung Hoa mà ông luôn đề phòng khi đi sứ khi mượn hình ảnh núi non , thác ghềnh nguy hiểm để đề cập....
- oa bàn 窩盤: chứa đựng sự quanh co, sự che đậy dối trá.
- si mị 魑魅: quỉ thần ở núi non.
- trung tín 忠信: lòng ngay thẳng và trung thành.
- thao thao 滔滔: chảy xiết, chảy cuồn cuộn.

(Lần đến: BẮC HÀNH TẠP LỤC – Bài 13, 14, 15 và 16)

Dương Anh Sơn


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét