Thứ Bảy, 22 tháng 3, 2025

Ức Trai Thi Tập Của Nguyễn Trãi - Bài 60, 61, 62 Và 63

 


ỨC TRAI THI TẬP CỦA NGUYỄN TRÃI - BÀI 60, 61, 62 VÀ 63
Thầy Dương Anh Sơn

ỨC TRAI THI TẬP CỦA NGUYỄN TRÃI

Bài 60

MẠN THÀNH (Kỳ nhất)                                                         漫 成 期一

Thanh niên phương dự ái nho lâm,                                            青年芳譽藹儒林,
Lão khứ hư danh phó mộng tầm.                                               老去虛名付夢尋.
Trượng sách hà tòng quy Hán thất,                                            杖策何從歸漢室,
Bão cầm không tự tháo Nam âm.                                               抱琴空自操南音.
Trọng Ni tam nguyệt vô quân niệm,                                          仲尼三月無君念,
Mạnh Tử cô thần lự hoạn tâm.                                                   孟子孤臣廬患心.
Đãn hỷ cung cơ tồn cựu nghiệp,                                                但喜弓箕存舊業,
Truyền gia hà dụng mãn doanh kim.                                          傳家何用滿贏金.

Dịch nghĩa:

Lúc tuổi thanh niên được ngợi khen và tiếng thơm nơi rừng Nho học tươi tốt, – Khi về già, cái danh suông gửi tìm trong giấc mộng. – Vì sao chống roi ngựa đi theo nhà Hán?, - Rồi ôm đàn chỉ đánh khúc nhạc Nam thôi?! (c.1-4)
Trọng Ni ba tháng không có vua để nghĩ nhớ, - Mạnh Tử lo lắng cho tấm lòng người tôi thần cô độc bị hoạn nạn . - Mừng cho nghiệp cũ cung nia vẫn còn - Truyền lại cho nhà cần chi vàng đầy khắp? (c.5-8)

Tạm chuyển lục bát:

TẢN MẠN THÀNH THƠ (Bài 1)

Tiếng thơm tuổi trẻ rừng Nho,
Về già tìm đến danh hờ chiêm bao.
Chống roi theo Hán vì sao?
Ôm đàn vẫn giữ điệu nào Nam thôi!
Mạnh- lo đơn độc bầy tôi,
Không vua ba tháng nhớ người: Trọng Ni.
Mừng còn nghiệp cũ cung, nia,
Truyền cho con cháu cần chi vàng nhiều!

Chú thích:

- phương dự 芳譽: tiếng thơm và sự khen ngợi.
- ái nho lâm 藹儒林: rừng Nho học tươi đông đúc, rộng khắp (ái), sự phát triển của Nho giáo. (Ái 藹: cây cối rậm rạp, nhiều, đông đúc).
- trượng sách 杖策: cây gậy và kế sách v.v... Đặng Vũ thời Đông Hán bên Trung Hoa nghe tin Hán Quang Vũ Lưu Tú dựng cờ, thu phục Hà Bắc bèn cưỡi ngựa chống roi xin theo và dâng kế sách, mưu chước đánh giặc.
- nam âm 南音: Chung Nghi người nước Sở, Trung Hoa, bị bắt sang Tần. Ông giỏi đàn nên khi vua Tần sai gảy đàn chỉ đánh đàn điệu phương nam để tỏ ý nhớ nhung và không quên quê hương.
- Trọng Ni và Mạnh Tử 仲尼 ,孟子: Khổng Tử và Mạnh Tử hai triết gia Trung Hoa có công lớn trong việc phát huy đạo Nho và đề cao sứ mệnh của các bậc quân, thần.
- cơ箕: (ki) cái nong gạo, cái nia sàng gạo. Cung để giữ gìn bờ cõi, còn nia để lo cơm no cho dân lúc thanh bình.

Bài 61

MẠN THÀNH (KỲ NHỊ)                                                        漫 成 期 二

Nhãn trung phù thế tổng phù vân,                                              眼中浮世總浮雲,
Oa giác kinh khan nhật Tấn Tần.                                               蝸角驚看日晉秦.
Thiên hoặc táng tư tri hữu mệnh,                                               天或喪斯知有命,
Bang như hữu đạo diệc tu bần.                                                  邦如有道亦羞貧.
Trần Bình tự tín năng vi tể,                                                        陳平自信能為宰,
Đỗ Phủ thùy linh dĩ ngộ thân.                                                    杜甫誰忴已誤身.
Thế sự bất tri hà nhật liễu,                                                         世事不知何日了,
Thiên chu quy điếu Ngũ Hồ xuân.                                             扁舟歸釣五湖春.

Dịch nghĩa:

Trong con mắt, cuộc đời trôi nổi thảy là đám mây bay bồng bềnh cả - Sợ rằng phải thấy mỗi ngày Tần và Tấn (tranh giành nhau) như chuyện cái sừng con ốc sên – Ông trời ngờ vực biết là có mệnh, nên đã bỏ mất nền tư văn - Nước mà có đạo phải xấu hổ cho cái nghèo. (c.1-4)
Trần Bình đã tự tin là mình làm được chức Tể tướng – Ai là người thương cho Đỗ Phủ vì lầm lẫn mà thân phải khổ - Chuyện đời chẳng biết ngày nào là chấm dứt - Với con thuyền nhỏ mùa xuân về câu cá ở Ngũ Hồ. (c.5-8)

Tạm chuyển lục bát:

TẢN MẠN THÀNH THƠ (Bài 2)

Mắt xem đời thảy mây bay,
Tấn Tần sợ thấy ngày ngày sừng sên.
Trời ngờ biết mệnh bỏ nền,
Nước nghèo có đạo cũng nên thẹn thùng.
Tin làm tể tướng: Trần Bình
Ai thương Đỗ Phủ lầm mình xót thân.
Chuyện đời chẳng biết, ngày tàn,
Thuyền con câu cá mùa xuân Ngũ Hồ.

Chú thích:

- câu 1: Mắt nhìn cuộc đời chìm nổi, tất cả đều như mây bay nổi trôi (phù vân).
- oa giác 蝸角: sách Trang Tử kể chuyện có hai kẻ tranh chấp nhau khi gọi con sên là “man”, kẻ kia gọi là “xúc” giống như Tấn Tần cứ tranh giành, đánh nhau mãi thời Xuân Thu.
- táng tư 喪斯: tư: chỉ nền tư văn là nền tảng lễ nghi và văn minh của một xã hội (nghĩa khác là trợ ngữ: ấy, là, thì, ắt, là, hoặc tách ra...); táng tư: bỏ mất đi những nền tảng căn bản và là giềng mối của xã hội.
- Trần Bình陳平: lúc chưa theo Lưu Bang, làm nghề chia thịt trong làng được các bô lão khen ngợi nên tự tin rằng mình có thể đảm nhận chức tể tướng. Về sau theo phò Hán Cao Tổ thắng lợi được phong chức Tả thừa tướng ngang chức tể tướng.
- 杜甫 Đỗ Phủ: nhà thơ lớn đời Đường thường nói “Nho quan đa ngộ thân” 儒冠多誤身 (nghĩa là : cái mũ của nhà Nho khiến thân mình chịu lắm sự nhầm lẫn hay nói rộng ra việc chọn Nho học cũng không phải là hợp thời)
- linh忴 (伶): hiểu trong lòng, thương xót, lênh đênh (誰忴 thùy linh: ai là người thương xót). Có bản ghi là thùy liên 誰憐, đứng về nghĩa “liên” cũng là sự thương xót, yêu thương, thương tiếc... v.v... tương tự như “linh”
- Thiên chu扁舟: thuyền con (Thiên là âm chữ “biển” chỉ tấm biển hoặc vật hình dẹt) Bản do Đ.D.A hiệu đính dùng chữ “biển chu” (S.đ.d tr.321)
- Ngũ Hồ 五湖: theo truyền thuyết đây là nơi Phạm Lãi 范蠡 (525-455 TCN), còn được gọi là Đào Chu Công 陶朱公 là một danh thần nước Việt thời Xuân Thu Chiến quốc bên Trung Hoa. Ông rất giỏi mưu lược , kế sách. binh pháp , kinh tế... v.v... Khi Việt vương Câu Tiễn được vua Ngô phóng thích cho về nước sau một thời gian bị bắt cầm tù vì thua trận, nhà vua vẫn chịu lệ triều cống ,ra vẻ phục tùng nhà Ngô. Phạm Lãi cùng bạn thân là mưu thần Văn Chủng bàn kế tìm người đẹp Tây Thi dạy ca múa, lễ nghi triều đình rồi dâng lên cho Ngô vương. Vua Ngô say mê Tây Thi bỏ bê triều chính, giết hại công thần Ngũ Tử Tư, làm quân đội suy yếu. Nhân cơ hội đó, Việt vương đem quân đã trui rèn tiến đánh và giết được vua Ngô trả được mối thù cũ .Phạm Lãi từ lâu đã nhận biết Câu Tiễn không phải là ông vua tin dùng công thần nên âm thầm cùng Tây Thi bỏ vào Ngũ Hồ dong thuyền ngao du ngày tháng. Và đây cũng chỉ là một giả thuyết thi vị thôi! Ngũ Hồ là một hồ lớn ở Tô Châu, Trung Hoa thường để chỉ nơi ở ẩn của những người không thích công danh phú quý và nhất là những người túc trí thấy xa không muốn những liên lụy về sau trong chốn quan trường. Cuộc đời của Nguyễn Trãi cho thấy dù ông đã lường trước các hệ lụy khi làm quan trong triều nên xin về qui ẩn ở Côn Sơn nhưng cái họa và lòng người ghen ghét vẫn theo ông gây ra cái án “tru di tam tộc” oan uổng về sau....

Bài 62

MẠN THÀNH (KỲ TAM)                                                        漫成期三

Bác Sơn hương tẫn ngọ song hư,                                               博山香燼午窗虛,
Lãn tính tòng lai ái tác cư.                                                         懶性從來愛索居。
Gia hữu cầm thư nhi bối lạc,                                                      家有琴書兒輩樂,
Môn vô xa mã cố nhân sơ.                                                         門無車馬故人疏。
Tê diêm tùy phận an hoành bí,                                                   齏鹽隨分安衡泌,
Hồ hải thê thân ức điếu ngư,                                                      湖海棲身憶釣魚。
Dữ thế tiệm sơ đầu hướng bạch,                                                與世漸疏頭向白,
Đông Sơn nhật nhật phú qui dư (dữ).                                        東山日日賦歸與。

Dịch nghĩa:

Cửa sổ lúc trưa trống trải để hương nơi lò trầm Bác Sơn còn sót đọng
tỏa ra, - Tính lười theo đuổi đến nay, thích ở riêng một mình! – Nhà có sách đàn trẻ nhỏ sẽ vui, - Cửa ngõ không ngựa xe, người quen xưa xa cách! (c.1-4)
Muối nêm để ăn tùy theo phận,ở cảnh nghèo uống nước suối vẫn giữ niềm vui, - Nương thân nơi chốn biển hồ vẫn nhớ thú câu cá . – Cùng với đời, mái đầu sắp trắng bạc, - Quay về cùng với thơ phú ngày ngày ở Đông Sơn. (c.5-8)

Tạm chuyển lục bát:

TẢN MẠN THÀNH THƠ(Bài 3)

Song hờ lò đọng hương trưa,
Tính lười theo mãi sống ưa riêng đời.
Sách đàn con cháu nhà vui,
Ngựa xe ngõ vắng thưa người xưa quen.
Phận yên : cổng ,suối ,muối nêm,
Náu thân hồ biển không quên giăng chài.
Cuộc đời đầu bạc dần phai,
Quay về thơ phú ngày ngày Đông Sơn.

Chú thích:

- Bác Sơn 博山: tên một loại đỉnh hay lư đồng để đốt trầm có trang trí hình ảnh núi Bác,dưới có nước sôi để hơi nước bốc lên quyện với hương trầm bay đi không hại mắt.
- tẫn 燼: tro tàn còn sót lại...
- song hư 窗虛: cửa sổ mở ra trống toát ,cửa sổ khép hờ không khóa chốt...
- lãn 懶: lười biếng, uể oải, bải hoải, mệt nhoài không muốn làm gì cả...
- tác cư 索居: ở một mình , lẻ loi , trơ trọi... Thành ngữ Trung Hoa có câu “Ly quần tác cư 離群索居 ”nghĩa là: lìa đàn để ở một mình.
- tê 齏: các loại gia vị làm đồ nêm vào thức ăn như muối (tê diêm), đường, gừng, sả, tiêu, hành, tỏi, ớt...
- an hoành bí 齏鹽隨: cây gác ngang cửa ,suối chảy tuôn (bí) là nơi có thể nghỉ ngơi được yên . Chỉ cuộc sống giản dị với nhà cửa thô sơ sống hòa hợp với thiên nhiên của những ẩn sĩ. Kinh Thi 詩經 của Trung Hoa có câu: “Hoành môn chi hạ, khả dĩ tê trì 衡門之下, 可以棲遲” (chương Trần Phong 陳風, mục Hoành môn 衡門) nghĩa là: dưới cửa bắc ngang thanh gỗ còn thô lậu, có thể ở nghỉ ngơi thong thả.
- thê(tê) thân 棲身: tấm thân được nghỉ ngơi...
- ức điếu ngư 憶釣魚: nghĩ đến, nhớ về chuyện câu cá.
- Đông Sơn 東山: tên ngọn núi ở Triết Giang bên Trung Hoa từng là nơi dừng chân của Tạ Ân ,người có tiếng phong lưu đời Tấn quay về chọn nơi đây để ẩn cư. Theo An Nam Chí lược của Lê Tắc, ngoài miền Bắc VN cũng có ngọn núi tên là Đông Sơn.
- phú quy 賦歸: phú: thể thơ với cách trình bày nói thẳng về sự việc hay sự tình cần nói đến có vần đối nhau .Làm thơ cũng gọi là phú thi 賦詩. Phú quy nghĩa là quay về để làm thơ phú nhàn nhã...
- dư (dữ) 與: cùng, kịp, đều, chơi thân nhau, giúp cho... Có bản dùng chữ dư 輿 có nghĩa là xe chở đồ, trời đất, số đông, địa dư... không hợp ý câu thơ.

Bài 63

QUAN HẢI                                                                                  關海

Thung mộc trùng trùng hải lãng tiền,                                         樁木重重海浪前,
Trầm giang thiết toả diệc đồ nhiên.                                            沉江鐵鎖亦徒然。
Phúc chu thuỷ tín dân do thuỷ,                                                   覆舟始信民猶水,
Thị hiểm nan bằng mệnh tại thiên.                                             恃險難憑命在天。
Hoạ phúc hữu môi phi nhất nhật,                                               禍福有媒非㇐日,
Anh hùng di hận kỷ thiên niên.                                                  英雄遺恨幾千年。
Kiền khôn kim cổ vô cùng ý,                                                     乾坤今古無窮意,
Khước tại Thương Lang viễn thụ yên.                                       卻在滄浪遠樹煙。

Dịch nghĩa:

Cọc gỗ hàng hàng lớp lớp trước sóng biển, - Chìm dưới sông là những đồ sắt giúp khóa chặt cũng uổng phí thôi. – Lật thuyền mới tin rằng dân cũng như nước, - Nhờ cậy vào chỗ hiểm trở, khó nương dựa vào vận mệnh bởi ông trời. (c.1-4)
Manh mối của họa và phúc chẳng phải một ngày, - Người anh hùng để hận lại mấy ngàn năm. - Ý của đất trời xưa nay vô cùng tận! – Lui về vùng Thương Lang có cây và khói xa xôi. (c.5-8)

Tạm chuyển lục bát:

CỬA ẢI Ở BIỂN.

Cọc bày trước sóng lớp hàng,
Uổng công xích khóa giăng bày chìm sông.
Lật thuyền biết nước là dân,
Mệnh trời, cậy hiểm khó làm được thay!
Phúc cùng họa chẳng một ngày,
Anh hùng để lại hận đây ngàn đời.
Xưa nay ý lớn đất trời ,
Lui về cây khói xa vời Thương Lan.

Chú thích:

** Khi giặc Minh tiến đánh nước ta, Hồ Quí Ly sai con là Hồ Hán Thương cho giăng cọc gỗ (thung mộc) và các dây xích sắt kết lại với nhau để ngăn thủy quân giặc Minh tấn công tấn công từ mặt biển. Nguyễn Trãi làm bài thơ này nghĩ đến những kế sách lớn của một nước phải luôn dựa vào lòng dân chính thể đó mới mong tồn tại. Đồng thời, nhìn vào hoàn cảnh của mình mong sớm qui ẩn (hai câu cuối)
- thiết tỏa 鐵鎖: sắt làm thành vòng (tỏa) kết lại với nhau như sợi xích hay lưới sắt (để cản ngăn thuyền giặc).
- đồ nhiên 徒然: uổng phí, phí công, hoài của, trống rỗng, chỉ như thế
thôi, không có lý do, ngẫu nhiên...
- phúc chu 覆舟: lật thuyền ,làm cho thuyền lật ngược...
- câu 3: lấy từ câu nói của Tuân Tử 荀子, một triết gia Trung Hoa (khoảng 310 đến 238 TCN) thời Chiến quốc .Ông cùng với Khổng Tử và Mạnh Tử trước đó được xem là ba nhà tư tưởng lớn của Nho giáo thời cổ đại của nước Trung Hoa. Ông có câu: “Dân do thủy dã,thủy năng tải chu,nhi năng phúc chu 民猶水也, 水能載舟, 而能覆舟” (Dân cũng như nước ,nước chở được thuyền và cũng làm lật thuyền). Nguyễn Trãi mượn ý để nói về chính sách của Hồ Quí Ly
không hợp lòng dân...
- thị hiểm 恃險: nương dựa, nhờ cậy vào việc bày bố hiểm hóc tạo hiểm nguy cho giặc...
- bằng 憑: gửi gắm, dựa vào, cậy vào, bằng cớ, bằng vào...
- môi 媒: duyên do, manh mối, dẫn dắt...
- kỷ 幾: bao nhiêu, mấy, câu hỏi về con số ước chừng...
- càn (kiến) khôn 乾坤: quẻ “càn 乾” và quẻ “khôn 坤” trong Kinh Dịch 易經 chỉ trời đất, âm dương như cha mẹ, trai gái, ngày đêm, mặt trăng mặt trời, nóng lạnh... v.v...
- khước 卻: lui về, rút lui, từ khước...
- Thương Lan 滄浪: trong bài Ngư Phủ của Khuất Nguyên trong Sở Từ , câu 5 và 6 có nói đến khúc sông Thương Lang nằm ở hạ lưu Hán Giang bên Trung Hoa. Cuối bài có hai câu: “Thương Lang chi thủy thanh hề, khả dĩ trạc ngã anh; Thương Lang chi thủy trọc hề, khả dĩ trạc ngã túc” (Nước của dòng Thương Lang trong trẻo ,ta có thể giặc dải mũ; Nước dòng Thương lang đục, ta có thể rửa chân). Thương Lang thường được các nhà thơ dùng để chỉ nơi ẩn dật của những người chọn đời sống giản dị, thanh cao.

(Lần đến: Ức Trai thi Tập – Bài 64, 65, 66 và 67)

Dương Anh Sơn


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét