Thứ Năm, 6 tháng 3, 2025

Thơ Của Đỗ Phủ - Bài 91, 92 Và 93

 


THƠ CỦA ĐỖ PHỦ - BÀI 91, 92 VÀ 93
Thầy Dương Anh Sơn


Bài 91

CÀN NGUYÊN TRUNG NGỤ CƯ
ĐỒNG CỐC HUYỆN TÁC CA (KỲ NGŨ)
乾元中寓居同谷縣作歌 (期五)

Tứ sơn đa phong, khê thuỷ cấp,                                                 四山多風溪水急,
Hàn vũ táp táp, khô thụ thấp.                                                     寒雨颯颯枯樹濕。
Hoàng hao cổ thành vân bất khai,                                              黃蒿古城雲不開,
Bạch hồ khiêu lương, hoàng hồ lập.                                          白狐跳梁黃狐立。
Ngã sinh hà vị tại cùng cốc?                                                      我生何為在窮谷?
Trung dạ khởi toạ, vạn cảm tập.                                                中夜起坐萬感集。
Ô hô! Ngũ ca hề, ca chính trường,                                           嗚呼!五歌兮歌正長,
Hồn chiêu bất lai, quy cố hương.                                               魂招不來歸故鄉。
(năm 759)

Dịch nghĩa:

Gió thổi khắp bốn bề núi non, dòng suối nước tuôn ào ào, - Mưa lạnh xào xạc, cây khô ẩm ướt. – Thành cũ mọc (khắp) cỏ hao vàng, mây trời (tụ lại) không giãn ra, - Con cáo trắng nhảy lên cầu, con cáo vàng đứng yên. (c.1-4)
Đời ta sao lại làm gì ở chốn hang cùng? – Giữa đêm ngồi dậy muôn ngàn cảm xúc tụ hội lại với nhau. – Than ôi! Bài ca thứ năm - chừ - bài ca vẫn còn đủ dài! – Vẫy hồn,hồn không trở lại, đang quay về nơi quê cũ!

Tạm chuyển lục bát:

BÀI CA LÀM KHI Ở TẠM TẠI CÀN NGUYÊN, HUYỆN ĐỒNG CỐC (BÀI 5)

Bốn bề gió núi suối xô,
Xạc xào mưa lạnh cây khô ướt dầm.
Thành xưa mây tụ, hao vàng,
Nhảy cầu cáo trắng, cáo vàng đứng đây!
Sao ta ở chốn hang này?
Muôn tình ngồi dậy tụ bày giữa đêm.
Than -chừ- dài đủ bài năm,
Hồn không trở lại, vẫn đang quê nhà!

Chú thích:

- Càn Nguyên 乾元: chưa rõ vị trí của vùng đất này vào thời kỳ Đỗ Phủ phải sinh sống. Còn nghĩa chữ Càn Nguyên hay Kiền Nguyên là thẻ Càn (kiền) tượng trưng cho trời đất (xem Kinh Dịch) sinh ra vạn vật, tạo mưa, làm gió... v.v... cho muôn loài. Đường Túc Tông 唐肅宗 sau thời Đường Minh Hoàng cũng lấy niên hiệu là Càn Nguyên (758-759).
- cấp 急: vội vàng, gấp rút, khẩn cấp...
- táp táp 颯颯: tiếng gió mưa xào xạc, gió thổi vù vù...
- hoàng hao: cây cỏ hao là bị khô vàng. Hao là một loại cỏ ngải có thể dùng làm thuốc như thanh hao 青蒿, bạch hao 白蒿, nhân trần hao 茵陳蒿, mẫu hao 牡蒿... v.v...
- vân bất khai 雲不開: mây tụ lại không giăng ra hay tản rộng ra...
- khiêu lương 跳梁: nhảy (khiêu) lên cầu (lương)...
- vạn cảm tập 萬感集: muôn ngàn cảm xúc tụ họp lại, muôn ngàn tình cảm đang trào dâng cùng nhau...
- hề 兮: xem chú thích bên dưới bài 92
- chính: ngay ngắn, thẳng thắn, đủ, vừa vặn, đúng lúc, đúng đắn, chính đáng... v.v...
- hồn chiêu bất lại 魂招不來: vẫy mời hồn( chiêu) nhưng hồn không trở lại ...

Bàu 92

CÀN NGUYÊN TRUNG NGỤ CƯ
ĐỒNG CỐC HUYỆN TÁC CA (KỲ LỤC)
乾元中寓居同谷縣作歌(期六)

Nam hữu long hề tại sơn tưu,                                                    南有龍兮在山湫,
Cổ mộc lung tung chi tương cù.                                                古木巃嵸枝相樛。
Mộc diệp hoàng lạc long chính trập,                                         木葉黃落龍正蟄,
Phúc xà đông lai thuỷ thượng du.                                              蝮蛇東來水上遊。
Ngã hàng quái thử, an cảm xuất,                                               我行怪此安敢出,
Bạt kiếm dục trảm thả phục hưu.                                               拔劍欲斬且復休。
Ô hô! Lục ca hề, ca tứ trì,                                                         嗚呼!六歌兮歌思遲,
Khê hác vị ngã hồi xuân tư.                                                       溪壑為我回春姿。
(năm 759)

Dịch nghĩa:

Có con rồng - chừ - nơi đầm sâu trên núi, - Cây xưa có dáng cao chót vót ngất ngưởng, cành buông rủ cùng với cây si. – Lá cây đã vàng rơi rụng, đúng lúc con rồng nép mình ngủ đông, - Con rắn hổ mang đến từ phía đông bềnh bồng trên mặt nước. (c.1-4)
Ta trải qua chuyện kỳ lạ này ở yên nào dám ra mặt đâu! – Tuốt gươm ra muốn chém nhưng hãy tạm dừng lại. – Than ôi! bài ca thương nhớ thứ sáu - chừ - đã chậm lại! – Suối khe, hang hốc vì ta để cho dáng vẻ của xuân quay về lại. (c.5-8)

Tạm chuyển lục bát:

BÀI CA LÀM KHI Ở TẠM TẠI CÀN NGUYÊN, HUYỆN ĐỒNG CỐC. (BÀI 6)

Đầm sâu - chừ - núi có rồng,
Cây xưa cao ngất ,si buông rủ cùng.
Lá rơi, rồng nép ngủ đông,
Hổ mang trên nước bềnh bồng hướng đông.
Dám ra đâu, việc lạ lùng!
Rút gươm muốn chém tạm dừng lại thôi.
Ôi! thương ca sáu chậm rồi!
Vì ta hang hốc khe vời vẻ xuân.

Chú thích:

- hề 兮: trợ từ dùng trong các bài hát “dao” hay bài phú (xem Chú thích về “dao” ở các bài trước) không có nghĩa rõ rệt chỉ dùng như từ “đệm” tạm dịch là “chừ” hay “a”. Ví dụ: trong bài “Quy khứ lai từ” của Đào Uyên Minh có câu: ” 歸去來兮,田圓將蕪,胡不歸? Quy khứ lai hề, điền viên tương vu, hồ bất quy“ (Quay về đi thôi - chừ - ruộng vườn sắp bỏ hoang, sao lại không trở về ?)
- sơn tưu 山湫: đầm hay cái ao sâu trong núi.
- lung tung 巃嵸: dáng cây cao chất ngất hay núi non cao chót vót, hiểm trở (Từ điển Thiều Chửu)
- chi tương cù 枝相樛: cành lá cùng cành cây si (cù mộc) buông rủ xuống.
- chính trập 正蟄: đúng lúc loài côn trùng, sâu bọ hay loài vật ngủ đông (chính: đúng lúc, đủ, ngay thẳng, đứng đắn, vừa vặn... v.v... (Xem C.T bài 91 ở trên).
- phúc xà 蝮蛇: loài rắn hổ mang.
- du 遊: rong chơi, kết giao (giao du), trôi nổi, bềnh bồng, lông bông... v.v...
- hàng 行: bước đi, làm ra, trải qua, sẽ, sắp đến, tài giỏi..
- quái thử 怪此: việc lạ lùng này, chuyện kỳ quái này...
- ca tứ trì 歌思遲: bài ca về niềm thương nhớ (tứ ) - thương ca - đã chậm lại (trì).
- tư 姿: dáng dấp, dáng vẻ, tư thế, sắc đẹp, thùy mị....

Bài 93

CÀN NGUYÊN TRUNG NGỤ CƯ
ĐỒNG CỐC HUYỆN TÁC CA (KỲ THẤT)
乾元中寓居同谷縣作歌(期七)

Nam nhi sinh bất thành danh thân dĩ lão,                                  男兒生不成名身已老,
Tam niên cơ tẩu hoang sơn đạo.                                                三年饑走荒山道。
Trường An khanh tướng đa thiếu niên,                                      長安卿相多少年,
Phú quý ưng tu trí thân tảo.                                                       富貴應須致身早。
Sơn trung nho sinh cựu tương thức,                                          山中儒生舊相識,
Đãn thoại túc tích thương hoài bão.                                           但話宿昔傷懷抱。
Ô hô! Thất ca hề, tiễu chung khúc,                                           嗚呼!七歌兮悄終曲。
Ngưỡng thị hoàng thiên bạch nhật tốc...                                    仰視皇天白日速。
(Năm 759)

Dịch nghĩa:

Làm trai sinh ra danh không thành mà tấm thân đã già! – Ba năm chịu đói chạy nơi những con đường núi hoang sơ. - Ở Trường An, hàng khanh tướng phần nhiều là người trẻ tuổi! – Cần đến sự giàu sang nên (họ) sớm trao thân vào đó. (c.1-4)
Trong núi là các nhà nho cùng quen biết cũ, - Chỉ cần nói chuyện xưa trước chất chứa niềm thương cảm. – Than ôi! Bài ca thứ bảy _ chừ_khúc ca buồn bã đã chấm dứt. - Ngẩng lên nhìn kỹ ông trời cao rộng, mặt trời trắng xóa đi nhanh chóng! (c.5-8)

Tạm chuyển lục bát 

BÀI CA LÀM KHI Ở TẠM TẠI CÀN NGUYÊN,
HUYỆN ĐỒNG CỐC. (BÀI 7)

Làm trai thân lão danh không!
Ba năm chịu đói chạy đường núi hoang.
Trẻ trung khanh tướng Trường An,
Sớm trao thân chốn giàu sang vẫn cần!
Nhà nho quen cũ trong non,
Chuyện xưa nói đến mang lòng cảm thương!
Ôi! - chừ - khúc bảy dứt: buồn,
Ngẩng nhìn trời rộng, trời tuôn trắng ngần!

Chú thích:

- tam niên 三年: tức ba năm từ năm 757 đến năm 759 của thời Đường Túc tông 唐肅宗 niên hiệu là Càn Nguyên 乾元. Thời kỳ đầu khi Đường Minh Hoàng lên ngôi (712) được xem là thời thịnh trị nhất của Trung Hoa .Đến thời Đường Túc Tông từ 757-759 là ba năm loạn lạc với các Tiết độ sứ các vùng nổi lên khắp nơi gây ra biết cảnh khổ đau cho dân chúng sau những biến động trước đó của cuộc bạo loạn do An Lộc Sơn gây ra. Đây cũng là ba năm rất vất vả lại càng khốn đốn của Đỗ Phủ trong cảnh bị biếm trích rày đây mai đó....
- ưng tu 應須: nên thế, cần phải thế ưng theo...
- Trường An 長安: có nghĩa là chốn an bình dài lâu để chỉ kinh đô của nhà Đường cũng như của 12 triều đại khác trước và sau, nằm ở phía tây bắc của Trung Hoa. Các nho sinh, các nhà văn, nhà thơ Trung Hoa luôn tự hào mình là người của Trường An, một nơi từng quy tụ biết bao tài tử, giai nhân cũng như nhiều khách văn chương tài hoa... vv... Nước Đại Việt xưa, các bậc tao nhân, văn nghệ sĩ cũng tự hào về đất Thăng Long, kinh đô nước Việt từ thời Lý Thái tổ cho đến thời Gia Long, nhưng nhiều người vẫn lệ thuộc và cuốn hút văn hóa Trung Hoa nên vẫn gọi kinh đô Thăng Long là Trường An trong thơ ca... v.v...
- ưng tu 應須: nên phải, nên như thế, ưng theo, cần làm theo...
- trí thân tảo 致身早: trao cho, đặt để (trí) tấm thân từ sớm (tảo).
- cựu tương thức 舊相識: quen biết nhau từ trước...
- đãn thoại 但話: chỉ cần nói đến...
- túc tích 宿昔: vốn có, có sẵn ( túc) trước kia hay xưa cũ (tích)...
- thương hoài bão 傷懷抱: niềm thương cảm vẫn ôm ấp, cất giữ trong lòng....
- tiễu (thiểu) 悄: buồn rầu, lặng lẽ, yên lặng, khe khẽ....
- chung khúc 終曲: khúc hát đã hết, đã kết thúc....
- ngưỡng thị 仰視: ngẩng đầu lên để nhìn cho rõ...
- hoàng thiên 皇天: tức ngọc hoàng, vua của cõi trời bao la, rộng lớn.
- bạch nhật tốc 白日速: mặt trời tuôn đi rất nhanh tạo thành màu trắng xóa...

(Lần đến: THƠ CỦA ĐỖ PHỦ - bài 94 , 95 và 96)

Dương Anh Sơn


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét