Nhà tù cộng sản nào cũng có khu cách ly dành cho tù bị bệnh truyền nhiễm như lao phổi, kiết lỵ, thương hàn… Thành phần nầy toàn là những người suy nhược, mất sức, thân thể gầy còm chỉ còn da bọc xương.
Những ngày mùa đông nắng ráo, nhìn những thân thể trần trụi của bệnh nhân phơi nắng trong khu tù cách ly, ta có cảm tưởng là khu triển lãm lộ thiên những bộ xương người. Thân hình vặn vẹo, co quắp, bày ra những chiếc xương sườn được bọc lớp da xanh xao, vàng tái đầy ghẻ lở. Chân tay là những khúc xương khẳng khiu nối liền với các khớp sưng vù do bệnh thấp khớp kinh niên. Ðôi chân rã rời bước đi như người máy hết pin, run run, chập chững. Ðôi tay buông thõng bất lực trước lũ ruồi đang tranh nhau đục khoét những ổ vi trùng trong đám ghẻ lở.
Minh Hải Hồ là họ tên quay nôi của cha mẹ Việt gốc Tàu đặt lúc anh mới chào đời tại Chợ Lớn. Suốt hai mươi năm trong quân ngũ, từ cấp binh nhì dần dà được thăng cấp lên Trung sĩ. Vì có tinh thần chiên đấu xuất sắc nên được cấp trên cho đi thụ huấn khóa sĩ quan đặc biệt. Từ năm 1974 thượng cấp bổ nhiệm anh giữ chức Đại đội phó kiêm sĩ quan CTCT thuộc một đại đội Đia Phương Quân bảo vệ an ninh vòng đai phi trường.
Sau cuộc “đổi đời 1975”,
Ðại úy Minh Hải Hồ vào tù. Dù tuổi đời tròn trèm bốn mươi nhưng bạn bè đùa
chơi cứ gọi anh là Bác mỗi khi không có cán bộ. Bác Minh Hải Hồ chẳng
phiền trách mà lấy đó làm vui.
Ðể giải quyết sự khó
khăn của Hồ, bạn bè góp ý tìm cho anh một tên mới. Ác thay, cái họ Minh của anh
cũng “phạm húy”. Vì vậy có người đề nghị lấy tên lót Hải thay tên Hồ để gọi
nhau, nhưng trong đội đã có Hải trắng và Hải đen.
Ông bà ta thường nhắm người mà đặt tên, nên cả đội đồng ý lấy tên Hải Vồ là hợp hơn cả. Dù sao thì cái tên Vồ vẫn còn giữ được âm ồ mà cha mẹ anh đã đã chọn . Ðồng thời lại hợp với chiếc trán dô ra qúa cỡ của anh.
Sáng hôm sau, Hải Vồ nộp
tờ kiểm điểm cho quản giáo. Nhìn vào tờ giấy, cán bộ hỏi:
Ðúng là lý luận của loài cáo đối với chú cừu con “mầy không lỗi thì đời cha mầy lỗi, đời cha không lỗi thì đời ông mầy vậy” (Thơ Ngụ ngôn của La Fontaine) . Ông Quản giáo lôi lý lịch cả ba đời ra, tha hồ mà bắt tội!
Hải Vồ trong suốt ba năm
cải tạo không có một lần thăm nuôi. Tuy vậy, anh rất yêu đời và tin tưởng tuyệt
đối vào lời hứa của cách mạng: “Trước sau như một, trại viên nào lao động tốt
sẽ được tha”
Hải Vồ bản chất cục mịch thiệt thà, làm việc cật lực, lúc nào cũng vượt chỉ tiêu của trại đề ra. Hàng tuần, hàng tháng, hàng năm, anh luôn luôn được xếp hạng thành tích lao động đầu bảng. Anh em trong đội đều kiêng dè không dám khuyên can. Những buổi kiểm điểm công tác lao động trong tuần, tên Hải Vồ thường được quản giáo phát huy để nêu gương phấn đấu cho toàn đội. Ðặc biệt nhất là cuộc tổng kết bình bầu tròn ba năm.
Trong ngày lễ mồng 2
tháng 9, Hải Vồ được tuyên dương “Tù Cải Tạo Lao Ðộng Tiên Tiến”. Lần nầy, Hải
Vồ lại viết thư, mặc dầu những lá thư trước chẳng có hồi âm. Anh dặn vơ: “Em ở
nhà phải thi hành nghiêm chỉnh chính sách của Ðảng, nhà nước, chính quyền địa phương.
Cần kết hợp giữa gia đình và cải tạo viên, hai bên cùng phát huy lao động tốt
thì ngày về của anh không còn bao xa nữa. Ðảng đã hứa trước sau như một em
à”
Lao động đã tốt mà còn thuộc bài như thế, hỏi ai không tin Hải Vồ được đảng sắp vào hàng ưu tiên!
Chiều ngày 15 tháng 10 năm 1977, lệnh từ Tổng trại ban ra: “Các đội nhận cơm vắt và chuẩn bị hành trang đi lao động xa.” Tù nhân bắt đầu xôn xao. Cộng sản nói một đường, làm một nẻo. Vì thế, kẻ đoán đi đào kênh người nghi dời trại. Theo kinh nghiệm, mỗi lần dời trại là có đợt phóng thích. Chung quy đều là những dự đoán.
Riêng Hải Vồ lần nầy chắc mẩm sẽ được ra tù. Anh nghĩ như thế và tin như thế bởi đảng nói trước sau như một mà. Ba năm liền có ai lao động hơn anh đâu. Tháng vừa rồi đại úy Toà, trưởng ban tiếp liệu không quân đã bị cảnh cáo toàn trại “tội lười lao động” với lý do gánh rạ không chịu bó chặt bị cán bộ quản giáo bắt gặp còn được phóng thích về đoàn tụ với gia đình huống hồ anh đã từng gánh sắn vượt chỉ tiêu gấp hai lần, từ tám đến chín chục cân.
Chính ủy Sư đoàn trực
tiếp tuyên dương anh trước tổng trại. Hải Vồ còn nhớ nằm lòng câu nói của người
cán bộ cấp cao: “Lao động như anh Minh Hải Hồ mới thực sự là tự giác và thể
hiện sự tiến bộ của cải tạo viên”. Ðêm đó, Hải Vồ sướng ran người mặc dù anh
cảm thấy chất gì nhột nhạt trong cổ họng, khạc ra có vị mằn mặn và ngực hơi khó
thở. Anh nghĩ thầm: “Ồ, chỉ vài sợi máu vấy trong đờm, nhằm nhò gì. Mình sẽ
được về với vợ con nay mai, cách mạng hứa là phải giữ lời với tù chứ!”
Ðoàn xe mười hai chiếc
gầm gừ leo lên dốc tiến vào cổng trại Cải Tạo An Ðiềm. Lần lượt từng chiếc một
đổ đám tù lếch thêch tả tơi giữa khu sân rộng. Trại tù nằm trên đỉnh đồi với
hai mươi căn nhà xây vách gạch, mái ngói trông rất bề thế, được bao bọc bởi bức
tường cao bằng gạch xi măng kiên cố, trên đầu tường thêm mấy hàng kẽm gai.
Là nhà tù chính thức do lực lượng công an là cai tù chuyên nghiêp Xã hội Chủ
nghĩa điều hành nên khác xa cảnh trại Tập trung tạm thời do bộ đội quản lý .
Thế là hết, chút hy vọng về nhà tù mới được thoải mái hơn đã tắt theo ánh sáng khung cửa duy nhất của phòng giam vừa đóng kín. Bóng tối lờ mờ từ các khung cửa sổ tò vò rọi vào những khuôn mặt chập chờn như bóng ma. Ánh mắt không hồn nhìn nhau ẩn chứa một điều duy nhất: “Những ngày tháng khắc nghiệt hơn, đau khổ hơn đang chờ đợi người tù…”.
Cái Tết đầu tiên tại
trại tù do công an quản lý, ban giám thị cho tù nhân bồi dưỡng ba con bò và
một trăm ký nếp gói bánh ú. Khi tin ấy được thông báo, mọi người rất hồ hởi.
Anh em mừng thầm: “Tết nầy có chất tươi khấm khá”.
Món thịt bò xào thơm ngào ngạt từ nhà bếp bay đến tận các láng trại. Tù nhân hít hà, nước miếng tuôn ra. Người dự tính chén ngay phần thịt bò trước tiên cho đã cơn ghiền. Một bạn khác có ý kiến chí lý hơn, khuyên nên ăn một nửa thịt thôi, còn nửa kia dành lại để ăn trước khi đi ngủ cho đỡ phần xót bụng. Người bạn nằm bên nhắc khéo: “Nầy, đằng ấy chớ nên ăn vội vàng nhé, nhớ nhai thật nhỏ, mình mới thưởng thức hết hương vị ngọt ngào, béo ngậy của miếng thịt bò tươi”. Ôi, niềm hạnh phúc to lớn của tù đang căng đầy trên năm mươi cặp mắt sáng rỡ.
Toán trực bưng thức ăn
về đến cửa. Cả phòng gióng mắt đợi chờ. Khi mười hai ô thịt được đặt “an vị”
trên sạp nằm, mọi người ồ lên thất vọng. Một phần ba ô thịt chia cho mười
người. Kết quả, mỗi tù nhân vỏn vẹn có bốn miếng da dính thịt, hai miếng gân,
một cục xương với nửa chén nước luộc da bò! Hy vọng càng nhiều thất vọng càng
lớn. Ở đây, nỗi thất vọng càng làm cho ruột gan mọi người “xót như muối, nhàu
như dưa” trước cái thân phận tù đày của mình! Cơn vui đang căng phồng tột đỉnh,
đột ngột xẹp nhanh như chiếc bong bóng xì hơi khi từng người nhận về phần thịt
và da ít oi của mình.
Ngay chiều hôm đó, một “bản tin truyền tai” được đánh đi từ nhà bếp: “Lòng ưu ái của đảng và nhà nước dành cho 1200 tù cải tạo trong ngày Tết thiêng liêng của dân tộc là ba con BÒ CÁCH LY!”
Những ngày mùa đông nắng ráo, nhìn những thân thể trần trụi của bệnh nhân phơi nắng trong khu tù cách ly, ta có cảm tưởng là khu triển lãm lộ thiên những bộ xương người. Thân hình vặn vẹo, co quắp, bày ra những chiếc xương sườn được bọc lớp da xanh xao, vàng tái đầy ghẻ lở. Chân tay là những khúc xương khẳng khiu nối liền với các khớp sưng vù do bệnh thấp khớp kinh niên. Ðôi chân rã rời bước đi như người máy hết pin, run run, chập chững. Ðôi tay buông thõng bất lực trước lũ ruồi đang tranh nhau đục khoét những ổ vi trùng trong đám ghẻ lở.
Ðêm ba mươi, lệnh từ trên ban xuống : “Tù nhân không được ngủ, phải hát những bài đồng ca, đón giao thừa tập thể. Ngồi nghiêm chỉnh nghe lời chúc Tết của Chủ tịch nước được truyền qua loa phóng thanh. Ðội nào im tiếng hát là có ý đồ chống đối.
Tội nghiệp cho thân tù, với bốn miếng da bò dai như da giày, một cái bánh ú gạo nếp bằng nắm tay trẻ con mà phải thức trả nợ suốt cả đêm. Lời chúc Tết năm xưa phát ra từ cái Tết Mậu Thân đầy máu và nước mắt: “…Ðánh cho Mỹ cút ngụy nhào. Tiến lên chiến sĩ đồng bào, Bắc Nam sum họp Xuân nào vui hơn…” được truyền thanh liên tục mấy cái Tết liền, nhân dân cả nước đã nhét đầy lỗ tai đến độ tràn ra ngoài, không còn chỗ nào nhét nổi, bây giờ vẫn còn tiếp tục phát đi.
Tối mồng hai Tết, lệnh tập họp khẩn trương toàn trai. Công An bảo vệ súng trong tay, nét mặt đằng đằng sát khí tràn ngập cả khu tập thể. Sau khi các khối tù ngồi ổn định trên sân, hai tù nhân được áp giải ra trước sân hội trường trình diện Ban giám thị. Hai phạm tù bị xích tay chung một còng số tám do hai công an áp giải. Ánh sáng ngọn đèn điện vàng vọt soi vào khuôn mặt hốc hác của hai bạn tù thoạt trông như hai chiếc đầu lâu đang di động. Chúng đẩy hai tù phạm đến dưới chân cột đèn đối diện với đám người áo vàng đang ngồi trên dãy ghế cao. Từng người một lần lượt tự đọc tờ kiểm điểm về bản tin đã loan truyền “ba con bò cách ly” mà các bạn ấy nói đùa trong lúc vô tình.
Giám thị trưởng đóng vai
quan tòa đọc bản lên án hai phạm tù: “Trần Siêng và Minh Hải Hồ đã tung tin
thất thiệt, dùng danh từ “bò cách ly” để ám chỉ Ðảng và Nhà nước ta cho tù ăn
thịt bò ốm đau, có toan tính làm hạ uy tín cán bộ và lãnh đạo trại, tuyên
truyền xuyên tạc chính sách của Ðảng và Nhà nước. Ðể chận đứng hình thức tuyên
truyền phản động, nay quyết định dành hình phạt để giáo dục hai phạm tù Trần
Siêng và Minh Hải Hồ như sau: Cùm sấp hai mươi bốn giờ, nhốt phòng biệt giam
một tuần lễ, hạ tiêu chuẩn phần ăn, cấm thăm nuôi một năm và đuổi ra khỏi
nhà bếp đi lao động ngoài”
Về sau, mỗi đợt được
gia đình thăm nuôi, thế nào cũng có anh than vãn đại loại như:
Như thế đó, đám tù cùng khổ thỉnh thoảng cũng có một vài phút giải sầu. Xin cảm ơn hai bạn tù nhà bếp đã làm giàu thêm cho bộ từ điển nhân gian nhóm từ ngữ rất hiện đại: “Bò cách ly”. Các nhà biên soạn từ điển thuộc nhóm Khoa học Xã hội ở Hà Nội nhớ đừng quên bổ túc thành ngữ mới đầy ý nghĩa nầy vào bộ Ðại Từ Ðiển Tiếng Việt với ghi chú nơi xuất xứ: “từ nhà tù Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam!”
Tác giả Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích
(Trích trong Tác phẩm “Lưu Dấu Ngày Xưa”)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét