Thứ Ba, 1 tháng 3, 2022

Thanh Hiên Thi Tập - Bài 51, 52, 53

 


THANH HIÊN THI TẬP - BÀI 51, 52, 53
Thầy Dương Anh Sơn 


Bài 51

DẠ HÀNH                                                                  夜 行

Lão nạp an miên Hồng Lĩnh vân,                               老納安眠鴻嶺雲
Phù âu tĩnh túc noãn sa tân.                                        浮鷗靜宿煖沙津
Nam minh tàn nguyệt phù thiên lý,                            南溟殘月浮千里
Cổ mạch hàn phong cộng nhất nhân.                         古陌寒風共一人
Hắc dạ hà kỳ mê thất hiểu,                                         黑夜何其迷失曉
Bạch đầu vô lại chuyết tàng thân.                              白頭無賴拙藏身
Bất sầu cửu lộ triêm y mệ,                                         不愁久露霑衣袂
Thả hỉ tu my bất nhiễm trần.                                      且喜鬚眉不染塵
Nguyễn Du                                                                阮 攸   

Dịch nghĩa

Nhà sư già ngủ yên giấc trong làn mây của Hồng Lĩnh. Đàn chim âu cũng yên nằm nơi bãi cát ấm cạnh bến sông. Vầng trăng tàn lấp ló ngàn ngàn dặm xa ở biển nam. Cơn gió lạnh thổi trên lối đi xưa cũ dồn vào một người. Đêm đen mờ mịt cớ sao vẫn chưa sáng. Mái đầu đã bạc không nơi nương nhờ lại vụng về chuyện che dấu tấm thân. Không sầu lo về chuyện ống tay áo thấm ướt đã lâu (khi đi) trong đám sương móc. Mừng thay râu mày (của ta) không bị nhuốm bụi bặm.

Tạm chuyển lục bát

ĐI ĐÊM

Sư già êm ngủ mây Hồng,

Đàn âu cát ấm, bến sông yên nằm.

Trăng tàn ngàn dặm biển nam,

Lối xưa gió lạnh dồn sang một người.

Tối mù đêm chẳng sáng trời,

Bạc đầu vụng náu không nơi nương nhờ.

Áo dầm sương chẳng âu lo,

Hãy mừng bụi chẳng nhuốm vô râu mày.

Chú thích

- nạp : áo tăng sĩ, vá áo, người đi tu theo đạo Phật.    

- an miên 安眠: giấc ngủ yên lành, giấc ngủ ngon...

- phù 浮: trôi nổi, chập chờn, lấp ló…
- tân 津: bến sông, chỗ để vượt sông.
- mạch 陌: lối đi, lối mòn, đường đi trong ruộng, đường chợ…
- mê 迷: mờ mịt, mê mờ, lầm lạc.
- hiểu 曉: trời bắt đầu sáng.
- lại 賴: nhờ cậy, nương tựa.
- lộ 露: hơi sương tỏa trên lá cây hay mái nhà tụ lại rơi xuống thành giọt gọi là lộ hay sương móc; phơi bày, lộ ra...
- triêm 霑: ngấm vào, đẫm ướt đụng chạm, có thể, được…
- mệ 袂: ống tay áo, vạt áo (duệ: tay áo).

Bài 52

ĐẠO Ý                                                                          道 意

Minh nguyệt chiếu cổ tỉnh,                                            明月照古井
Tỉnh thuỷ vô ba đào.                                                      井水無波濤
Bất bị nhân khiên xả,                                                     不被人牽扯
Thử tâm chung bất dao.                                                 此心終不搖
Túng bị nhân khiên xã,                                                  縱被人牽扯
Nhất dao hoàn phục chỉ.                                                一搖還復止
Trạm trạm nhất phiến tâm,                                             湛湛一片心
Minh nguyệt cổ tỉnh thuỷ.                                              明月古井水
Nguyễn Du                                                                     阮 攸   

Dịch nghĩa

Giếng xưa có ánh trăng sáng tỏ soi vào. Nước giếng không gợn sóng; không để bị người dẫn dắt, ràng buộc. Rốt cùng lòng này không hề dao động. Dẫu ai dẫn dắt, buộc ràng sẽ lao xao một lúc lại trở về yên lắng. Sâu dày một tấm lòng, như vầng trăng sáng ngời soi chiếu vào giếng nước xưa.

Tạm chuyển lục bát 

NÓI Ý MÌNH

Sáng soi giếng cổ ánh trăng,
Giếng không gợn nước chẳng dâng sóng trào.
Không người dẫn dắt buộc vào,
Rốt cùng chẳng chút lao xao lòng này.
Buộc ràng dắt dẫn dù ai!
Lao xao một lúc lắng ngay lại rồi.
Sâu xa một tấm lòng thôi.
Giếng xưa sáng tỏ trăng soi một vầng.

Chú thích 
*** Đây là bài thơ mang âm hưởng Thiền Tông chủ yếu lấy “ĐỊNH” làm nền tảng để tu tập sao cho TÂM luôn trong lắng trước mọi ưu phiền, cám dỗ từ cuộc sống. Để từ đó “minh tâm kiến tánh” làm cho tâm trong sáng hầu thấy “TÁNH”; và “KIẾN TÁNH” tức là thấy được “Bản lai diện mục” (gương mặt thuở nào) qua hình ảnh “cổ tỉnh” (giếng nước xưa). Cuộc đời của Tố Như cho thấy tiên sinh là người thường vào ĐỊNH và nghiên cứu kinh điển Thiền Tông (xem bài “Lương Chiêu Minh thái tử Phân kinh Thạch đài - Bắc hành Thi tập”) đặc biệt là Kinh Kim Cương Bát Nhã ba la mật đã được ông đọc trên một ngàn lần .Điều đó cho thấy sự am tường về đạo Phật của tiên sinh.
- bị 被: chịu, bị, đến, mang vác, vỏ bên ngoài…
- khiên xả 牽 扯: trói buộc, dẫn dắt, ép theo.
- túng 縱: phóng túng, buông thả, tung ra, dẫu, dù cho, tuy rằng... 
- chung 終: rốt cùng, kết thúc, sau hết…
- dao 搖: xao động, không làm chủ mình, lay động…
- chỉ 止: yên lắng, dừng lại, đến, ngăn cấm, sự yên ổn của tâm (Phật giáo).
- trạm trạm  湛 湛: sâu xa, dày dặn, đầy sương móc…

Bài 53

NGỌA BỆNH (Kỳ nhất)                                               臥 病 (其一)

Đa bệnh đa sầu khí bất thư,                                        多病多愁氣不舒
Thập tuần khốn ngoạ Quế Giang cư.                         十旬困臥桂江居
Lệ thần nhập thất thôn nhân phách,                           癘神入室吞人魄
Cơ thử duyên sàng khiết ngã thư.                              饑鼠緣床喫我書
Vị hữu văn chương sinh nghiệt chướng,                    未有文章生孽障
Bất dung trần cấu tạp thanh hư.                                 不容塵垢雜清虛
Tam lan song hạ ngâm thanh tuyệt,                            三蘭窗下吟聲絕
Điểm điểm tinh thần du thái sơ.                                 點點精神遊太初
Nguyễn Du                                                                阮 攸   

Dịch nghĩa 

Lắm sầu lại nhiều bệnh nên tinh thần không được ngơi nghỉ, thư thái, thong dong. Đã mười tuần phải nằm bẹp mệt nhoài ở bờ đông sông Quế. Thần ôn dịch vào nhà nuốt chửng thần phách, hồn vía của người. Chuột đói leo lên giường nhai sách của ta. Chưa hề có việc văn chương gây ra những phiền lụy. Không được để cho bụi bẩn lẫn vào chốn trong sạch, lắng lòng. Ba khóm lan bên dưới song cửa và tiếng ngâm nga giờ đã bặt. Tinh thần dần dà rong chơi cõi ban sơ.   

Tạm chuyển lục bát 

NẰM BỆNH

Bệnh nhiều sầu lắm chẳng ngơi,
Quế Giang nằm bẹp tả tơi mười tuần.
Vào nhà thần dịch nuốt thần,
Sách ta chuột đói leo ăn nơi giường.
Chưa hề phiền lụy văn chương,
Cõi không trong lắng chẳng vương bụi đời.
Bên lan bặt tiếng ngâm rồi,
Tinh thần dần đến cõi trời ban sơ.

Chú thích
- khí 氣: tinh thần, tinh khí, hơi thở, thói tính, thời tiết…
- thư  舒: thư thả, thong thả, chậm rãi, giãn, duỗi...
- khốn 困: mệt mỏi, bỏ phế, trốn chạy, quẻ khốn, rã rời (Dịch).
- lệ 癘: ôn dịch, dịch bệnh, bệnh nặng, vết thương nặng…
- thôn 吞: nuốt xuống.
- phách 魄: thần phách, hồn vía, phần tinh thần của con người.
- duyên 緣: leo lên, nhờ cậy, nhân duyên…
- khiết 喫: gặm nhắm, ăn uống.
- nghiệt chướng 孽 障: những phiền lo, hệ lụy ràng buộc con người trong cuộc sống.
- bất dung 不容: không được, không nên, không thể.
- tạp 雜: lẫn lộn, xen vào, hợp vào, tạp nhạp.
- thanh hư 清 虛: chốn hư không thanh tịnh, trong lắng.
- điểm điểm 點 點: từng giọt rơi, dần dần.
- thái sơ 太 初: thuở ban sơ, lúc ban đầu, cõi hư không.

Saigon, 2003
Dương Anh Sơn

(Lần đến THTT bài 54, 55 và 56)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét