Thứ Bảy, 19 tháng 3, 2022

Thơ Lý Bạch - Bài 48, 49, 50

 


THƠ LÝ BẠCH - BÀI 48, 49, 50
Thầy Dương Anh Sơn 

BÀI 48

CỔ PHONG (KỲ TAM THẬP TỨ )                      (其三十四) 

Vũ hịch như lưu tinh,                                                羽檄如流星,
Hổ phù hợp chuyên thành.
                                        虎符合專城。 
Huyên hô cứu biên cấp,                                             
喧呼救邊急,    
Quần điểu giai dạ minh.
                                            群鳥皆夜鳴。
Bạch nhật diệu Tử Vi,
                                               白日曜紫微,
Tam công vận quyền hành.
                                        三公運權衡。
Thiên địa giai đắc nhất,
                                             天地皆得一,

Đạm nhiên tứ hải thanh.                                            澹然四海清。
Tá vấn thử hà vi?                                                       
借問此何為,
Đáp ngôn: "Sở trưng binh".                                       
答言楚徵兵。
Độ Lô cập ngũ nguyệt,                                              
 渡瀘及五月,
Tương phó Vân Nam chinh.
                                       將赴雲南征。
Khiếp tốt phi chiến sĩ,
                                                 怯卒非戰士,  
Viêm phương nan viễn hành.
                                      炎方難遠行。 
Trường hào biệt nghiêm thân,
                                     長號別嚴親,
Nhật nguyệt thảm quang tinh.                                     
日月慘光晶。

Khấp tận kế dĩ huyết,                                                   泣盡繼以血,
Tâm tồi lưỡng vô thanh.
                                              心摧兩無聲。
Khốn thú đương mãnh hổ,                                           
困獸當猛虎,
Cùng ngư nhĩ bôn kình .                                              窮魚餌奔鯨。
Thiên khứ bất nhất hồi,
                                               千去不一回,     
Đầu khu khởi toàn sinh.                                              
投軀豈全生。
Như hà vũ can thích,
                                                   如何舞幹戚,
Nhất sử hữu Miêu bình.
                                              一使有苗平。
Lý Bạch 
                                                                      李白

Dịch nghĩa:

Cổ phong (bài thứ ba mươi bốn).

Những bảng hịch thông báo (có gắn lông gà) như sao trời dịch chuyển! Các hổ phù để triệu tập (các cấp) đến họp với các quan coi thành. Những lời kêu gọi ồn ào việc cứu giúp gấp rút vùng biên giới! Các bầy chim đều kêu lên khi đêm tới. (C. 1-4).

Mặt trời ban ngày soi chiếu cung Tử Vi. Các quan "Tam công" đứng đầu triều đình đang dùng quyền hành để thực thi công việc. Trời và đất đều là một thể, bốn biển  đang tĩnh lặng và thanh bình vì sao lại xảy ra những việc này? Câu trả lời là tập hợp quân lính ra đi đánh nước Sở! (C. 5-8).

Vượt qua sông Lô kịp đến tháng năm rồi cùng nhau đến Vân Nam đánh trận. Người lính mà hèn nhát không phải là người lính đi chiến đấu! Đi về phương nam rất là khó khăn (nên) cứ gọi dài giã từ cha mẹ! Ánh sáng mặt trời, mặt trăng chiếu soi buồn bã, đau thương! (C. 9-12).

Khóc như mưa mãi cho đến khi chảy máu mắt! Tấm lòng và sự bi thương: cả hai không lời không tiếng! Con thú bị vây hãm đến chỗ cùng sẽ dám đương đầu với loài hổ dũng mãnh; loài cá ở thế cùng phải vội vàng bơi trốn làm mồi cho cá voi! (C. 17-20).

Cả ngàn người ra đi không một ai quay trở về! Đã ném hình hài đi, mạng sống há còn chăng, giống như múa búa chỉ uổng công vô ích; giá như khiến một lần là chiếm được binh lính bộ tộc Miêu hay sao!

Tạm chuyển lục bát:

CỔ PHONG (BÀI THỨ 34)

Hịch như sao chuyển truyền mau,

Quan thành thẻ hổ họp nhau triệu vào.

Hét hò cứu ải gấp nào!

Kêu vang khắp chốn vào đêm chim bầy.

Tử Vi trời chiếu ban ngày,

Tam Công quyền bính việc này xét soi.

Đất trời chỉ một mà thôi!

Thanh bình bốn biển nơi nơi yên bề.

Hỏi sao làm việc đó chi?

Trả lời: đánh Sở lính thì vào quân.

Vượt sông Lô kịp tháng năm,

Cùng nhau đi đến Vân Nam xa nào!

Hèn làm lính trận được đâu,

Phương nam xa tít gian lao bước đường.

Gào to từ giã thân thương,

Đêm ngày ánh sáng sầu buồn đớn đau!

Khóc như trút lệ máu trào,

Tan lòng nát dạ không sao thành lời.

Thú nhoài mệt trước cọp rồi,

Cùng đường cá chịu làm mồi kình thôi!

Ngàn đi về lại không người!

Tấm thân ném bỏ, vẹn đời được đâu?!

Múa may chiếc búa uổng sao!

Giá như có một lần nào dẹp Miêu!

Chú thích:

- vũ hịch 羽檄: bảng thông báo ngày xưa có treo chiếc lông gà để cho biết đây là việc gấp rút.

- lưu tinh 流星: những ngôi sao chuyển ngôi mau chóng.
- hổ phù 虎符: thẻ tre có chạm khắc hình con hổ để quan trên triệu tập người dưới quyền khi có việc cần kíp.
- chuyên thành 專城: quan chuyên trông coi việc giữ thành trì ngày xưa .
- huyên hô 喧呼: kêu la,hô hoán huyên náo, ồn ào...
- Tử Vi 紫微: theo thiên văn học xưa của Trung Hoa xưa, trên bầu trời có nhóm sao nằm quanh khu vực sao Bắc Đẩu gọi là chòm Tử Vi Viên 紫微垣. Còn theo các đạo gia, trên trời có nhiều cung điện của chư tiên trong đó có cung điện Tử Vi. Các vua thời trước cũng đặt tên cho các cung điện của mình theo tên các vì sao đó.
- Tam Công  三公: tước "Công", tước to nhất trong năm tước (Công, Hầu, Bá, Tử, Nam). Quan "công", có ba bậc quan cao nhất thời xưa gọi là "tam công". Nhà Chu của người Hán xưa đặt ba chức quan Thái Sư 太師, Thái Phó 太傅, Thái Bảo 太保 là "tam công".
- đạm nhiên 澹然: yên ổn, tĩnh lặng không bị xáo trộn...
- thử hà vi 此何為: sao lại có việc này, làm việc này là vì sao đây...
- Lô 瀘: tức là Lô Giang. Sông Lô ở đây chỉ khúc sông "Kim Sa" 金沙 nằm giáp tỉnh Tứ Xuyên và Vân Nam, T.H. bây giờ.
- phó 赴: đi đến nơi, đi tới, báo việc tang, đến dự vào công việc nào đó(phó hội).....
- khiếp 怯: sợ hãi, khiếp sợ, hèn nhát, yếu đuối...
- viêm phương 炎方: chỉ phương nam, vùng có khí hậu nóng nhiều so với phía bắc.
- trường hào 長號: gào to mà kéo dài, kêu  la lớn giọng...
- thảm quang tinh 慘光晶: tinh: ánh sáng trong suốt, lóng lánh, thủy tinh, pha lê.... Ánh sáng buồn thảm, đau thươn ; ánh sáng nghe như chất chứa sầu đa, buồn khổ, bi thương...
- nhĩ 餌: mồi câu cá, nhử quân địch, nuốt thức ăn, dụ quân địch...
- đầu khu 投軀: ném bỏ thân thể, bỏ mình, hy sinh...
- can 幹: uổng công vô ích, khô ráo, suông không thực tế...; cán: chuôi dao, cán búa...
- thích 戚: cái búa, thương xót, lo lắng,xấu hổ...
- hữu  有: có, lấy được, đầy đủ, sung túc, cố ý; (âm) dựu: lại thêm
- Miêu 苗: còn gọi là người H' Mông gồm nhiều nhóm thiểu số sinh sống rải rác ở các vùng miền nam Trung Hoa cũng như các vùng núi ở Việt Nam, Thái Lan, Lào, Miến Điện. Thời nhà Đường cũng như các thời trước, nhiều bộ tộc người H'Mông (người Hán gọi họ là Miêu tộc) có khi hùng mạnh thường tụ quân quấy phá các vùng của người Hán, tương tự các bộ tộc phía bắc như Hung Nô, Mông Cổ vẫn thường đánh phá vùng biên giới Trung Hoa.

BÀI 49

CỔ PHONG KỲ THẬP NGŨ                                    古 風 (其十五)

Yên Chiêu diên Quách Ngỗi,
                                         燕昭延郭隗,
Toại trúc Hoàng kim đài.                                               遂筑黃金臺。
Kịch Tân phương Triệu chí,
                                           劇辛方趙至,
Trâu Diễn phục Tề lai.
                                                   鄒衍復齊來。
Nại hà thanh vân sĩ,
                                                        奈何青雲士,
Khí ngã như trần ai.
                                                       棄我如塵埃。 
Châu ngọc mãi ca tiếu,
                                                   珠玉買歌笑,
Tao khang dưỡng hiền tài.
                                              糟糠養賢才。
Phương tri "hoàng hộc cử",
                                            方知黃鵠舉,
Thiên lý độc bồi hồi.
                                                      千里獨徘徊。
Lý  Bạch                                                                        
 李白 

Dịch nghĩa:

CỔ PHONG (BÀI THỨ MƯỜI LĂM)

Yên Chiêu mời Quách Ngỗi,
Cho dựng chiếc đài vàng.
Kịch Tân phía Triệu đến,
Trâu Diễn từ Tề sang.
Làm được gì kẻ ẩn?!
Bỏ ta như bụi đàng (đường).
Mua cười - hát: châu ngọc,
Nuôi hiền tài:  tồi tàn.
Có biết chuyện "chim hộc",
Bâng khuâng riêng dặm ngàn!

Chú thích:
- Quách Ngỗi 郭隗 và Hoàng kim đài 黃金臺: xem CT về Quách Ngỗi và Hoàng kim đài bên trên (Bài 33 HÀNH LỘ NAN kỳ nhị).
- Kịch Tân 劇辛: Kịch Tân là một viên tướng có tài, trước đây ở nước Triệu, sau được Quách Ngỗi của nước Yên cố vấn cho Yên Chiêu vương mời về Yên. Khi còn ở Triệu rất quen biết tướng Bàng Noãn nên thừa cơ tướng Liêm Pha bỏ sang Ngụy nên Yên vương Hỉ muốn đánh Triệu, hỏi ý kiến Kịch Tân .Tân cho rằng đối phó với tướng Bàng Noãn không khó nên được Yên Chiêu vương cho cầm quân đánh Triệu do Bàng Noãn làm làm tướng lĩnh nhưng bị thua trận. Kịch Tân bị  giết chung số phận cùng hai vạn quân  nước Yên(242 TCN).
- Trâu Diễn 鄒衍: với kế sách do Quách Ngỗi đề ra, Yên Chiêu vương đã cho dựng "Chiêu hiền đài" (có dát vàng nên còn gọi là Hoàng kim đài) để tiếp đón hiền tài đến nước Yên giúp rập. Ngoài Nhạc Nghị, Kịch Tân còn có một nhà tư tưởng danh tiếng của phái âm dương gia (305-240 TCN) là Trâu Diễn người nước Tề đến du thuyết ở nước Yên. Chiêu vương đích thân cầm chổi vừa lùi vừa quét tỏ lòng kính trọng và xin làm đệ tử. Với những hiền tài như thế chỉ trong một thời gian ngắn ,nước Yên trở nên nước mạnh và Yên Chiêu vương có đủ sức để đánh Tề trả mối thù cũ...
- nại hà 奈何: làm sao được, làm gì được, đối phó như thế nào....  
- thanh vân sĩ 青雲士: kẻ sĩ ở ẩn, xa rời công danh, người cao thượng, người giỏi giang còn chờ thời....; trong Truyện Kiều của Nguyễn Du," thanh vân" lại có nghĩa là đường công danh: Thênh thang đường cái, thanh vân hẹp gì - (c.2478) và Kim từ nhẹ bước thanh vân (c.2867)
- khí 棄: bỏ đi, quên đi, vứt bỏ...
- tao khang 糟糠: bã rượu, bột tấm cám vụn, chỉ sự nghèo nàn, thức ăn tồi tàn của người nghèo, cũng chỉ tình nghĩa vợ chồng chung thủy từ lúc còn nghèo ăn uống kham khổ...
- phương 方: hướng, phía, vuông vức, phê bình, đơn thuốc, so sánh, có biết, bế tắc...
- hoàng hộc cử 黃鵠舉: truyện kể Điền Nhiên là hiền tài của nước Lỗ nhưng không được vua Lỗ trọng dụng nên bỏ sang nước Yên được vua tin tưởng phong tướng giúp vua giữ được lãnh thổ được một thời thái bình. Ông thường nói rằng mình ở nước Lỗ ví như con gà nhưng đến nước khác dược dùng ví như con chim hộc vàng (hộc: con thiên nga, con ngỗng trời...) bay cao. (cử: cất đầu, ngẩng đầu lên, nổi lên, bay cao lên...)
- bồi hồi 徘徊: do dự, dùng dằng, lòng bâng khuâng...
*** Đây có lẽ đề cập giai đoạn Đường Minh hoàng mê đắm Dương quí phi bỏ bê việc nước,quên hiền tài, không nghe can gián nên những kẻ sĩ như Lý Bạch lần lượt bỏ đi...

BÀI 50

CỔ PHONG (KỲ TAM THẬP NHẤT)                  (其三十一 )


Trịnh khách tây nhập quan,                                    鄭客西入關,

Hành hành vị năng dĩ.                                            行行未能已。

Bạch mã Hoa Sơn quân,                                        白馬華山君,  
Tương phùng bình nguyên lý.                               相逢平原里。

Bích di Cảo Trì quân,                                             璧遺鎬池君,

Minh niên Tổ long tử.                                            
明年祖龍死。
Tần nhân tương vị viết,                                         
秦人相謂曰,
Ngô thuộc khả khứ hĩ.                                           吾屬可去矣。

Nhất vãng Đào Hoa nguyên,                                 
一往桃花源,
Thiên xuân cách lưu thủy.                                     
千春隔流水。 

Lý Bạch                                                                李白 

Dịch nghĩa:

Cổ phong (bài thứ ba mươi mốt).

Người khách họ Trịnh từ phía tây đi vào cửa quan ải, cứ đi đi mãi vẫn chưa dừng lại. Có bậc đạo gia từ núi Hoa Sơn cưỡi con ngựa trắng cùng gặp nhau nơi cánh đồng bằng trao cho Cảo Trì quân viên ngọc bích (c.1-5). Và (tin cho biết) sang năm ông vua thủy tổ (ám chỉ Tần Thủy hoàng) sẽ mất đi. Người nước Tần đã nói cho biết như thế (và khuyên) tôi cùng thân thuộc nên rời đi thôi! Một lần đi qua dòng nguồn suối Đào Hoa, sẽ được xa cách mãi cả ngàn mùa xuân, cứ mặc cho dòng nước chảy trôi đi (mặc cho sự đổi thay) (c.6-10).

Tạm dịch thơ:

CỔ PHONG (BÀI THỨ BA MƯƠI MỐT).

Khách Trịnh vào ải quan, 

Chưa dừng, cứ đi mãi.

Ngựa trắng Hoa Sơn quân,

Đồng bằng cùng gặp gỡ.

Ngọc đưa Cảo Trì quân,

Sang năm Tổ long mất.

Báo cho biết: người Tần,

Hãy đi cùng thân thuộc.

Nguồn Đào qua một lần,

Ngàn xuân xa dòng chảy!

Chú thích:

- quan 關: cửa ải biên giới (ải quan 隘關)

- hành hành 行行: cứ đi mãi không dừng lại.
- dĩ 已: dừng, ngưng lại, đã, rồi, bãi chức, làm xong, đó, ấy.....
- Hoa Sơn quân 華山君: quân: tiếng tôn xưng những bậc bề trên đáng kính trọng. Đây chỉ đạo gia từ núi Hoa Sơn đến.
- Tổ long 祖龍: ông tổ đứng đầu các con rồng; rồng là biểu tượng người làm vua. Đây chỉ người có công lập nên nhà Tần, thống nhất Trung Hoa là Tần Thủy hoàng ,xem mình là thủy tổ của nhà Tần giai đoạn mới. Chính sách của nhà Tần dưới thời Tần Thủy hoàng rất khắc nghiệt khiến nhiều người phải trốn lánh lên các rừng sâu hoặc đồi núi xa xôi, có khi cả một họ, một làng cùng bỏ đi lánh nạn...
- vị 謂: lấy lời mà bảo, rằng, nói cho biết...
- Đào Hoa nguyên 桃花源: Nguồn suối Đào Hoa. Đây là câu chuyện kể của Đào Tiềm (陶潛) (365 - 427 SCN), hiệu Uyên Minh (淵明), tự Nguyên Lượng (元亮) biệt hiệu là Ngũ Liễu tiên sinh. Ông người đất Tầm Dương, nay thuộc huyện Cửu Giang, tỉnh Giang Tây, T.H. là một trong những nhà thơ lớn của Trung Hoa đã sớm từ bỏ con đường công danh treo ấn từ quan khi làm huyện lệnh Bành Trạch mới tám mươi ngày, để giữ phẩm cách của mình. Bài thơ nổi tiếng của ông là "Quy khứ lai từ" (歸去來辭) và bài ký "Đào hoa nguyên ký "(桃花源記) hay "Đào nguyên ký". - "Đào nguyên ký" là câu chuyện được Đào Tiềm kể về một người chài cá ở khe núi thấy một bông hoa đào trôi từ khe suối ra. Ông chài bèn chèo thuyền đi theo con suối, đi mãi đến một vùng có thôn xóm có nhiều người sống an nhàn, đơn giản, không phải lo toan như cách sống theo sự cai trị của triều đình. Hỏi chuyện của họ, ông chài mới biết tổ tiên nhiều đời của những người này vốn ở đất Tần, nhưng do sự cai trị tàn bạo của vua quan nhà Tần nên họ đem cả họ hàng, làng xóm đến chốn yên bình, thảnh thơi, tự do, xa cách với xã hội cũ. Ông chài ở chơi vài hôm rồi men theo con suối đi về. Sau này, ông muốn quay trở lại chốn suối nguồn của cánh hoa đào năm xưa nhưng không tìm thấy được nữa.
- lưu thủy 流水: dòng nước chảy. Cũng chỉ sự biến dịch, đổi thay. Ở đây, Lý Bạch muốn nói đến những người sống chốn "Đào nguyên" (Nguồn đào) đã cách biệt với xã hội bên ngoài rất nhiều mùa xuân. Cuộc sống bên ngoài có đổi thay cũng không hề ảnh hưởng cuộc sống an nhàn, tự do của họ.

Dương Anh Sơn

(Lần đến: Thơ Lý Bạch bài 51 ,52 ,53)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét