Vũ hịch như lưu tinh, 羽檄如流星,
Hổ phù hợp chuyên thành.
虎符合專城。
Huyên hô cứu biên cấp,
喧呼救邊急,
Quần điểu giai dạ minh. 群鳥皆夜鳴。
Bạch nhật diệu Tử Vi,
白日曜紫微,
Tam công vận quyền hành. 三公運權衡。
Thiên địa giai đắc nhất, 天地皆得一,
Đạm nhiên tứ hải thanh. 澹然四海清。
Tá vấn thử hà vi? 借問此何為,
Đáp ngôn: "Sở trưng binh". 答言楚徵兵。
Độ Lô cập ngũ nguyệt, 渡瀘及五月,
Tương phó Vân Nam chinh.
將赴雲南征。
Khiếp tốt phi chiến sĩ, 怯卒非戰士,
Viêm phương nan viễn hành.
炎方難遠行。
Trường hào biệt nghiêm thân, 長號別嚴親,
Nhật nguyệt thảm quang tinh. 日月慘光晶。
Khấp tận kế dĩ huyết, 泣盡繼以血,
Tâm tồi lưỡng vô thanh. 心摧兩無聲。
Khốn thú đương mãnh hổ,
困獸當猛虎,
Cùng ngư nhĩ bôn kình
. 窮魚餌奔鯨。
Thiên khứ bất nhất hồi,
千去不一回,
Đầu khu khởi toàn sinh.
投軀豈全生。
Như hà vũ can thích, 如何舞幹戚,
Nhất sử hữu Miêu bình. 一使有苗平。
Lý Bạch 李白
Dịch nghĩa:
Cổ phong (bài thứ ba mươi bốn).
Những bảng hịch thông báo (có gắn lông gà) như sao trời dịch chuyển! Các hổ phù để triệu tập (các cấp) đến họp với các quan coi thành. Những lời kêu gọi ồn ào việc cứu giúp gấp rút vùng biên giới! Các bầy chim đều kêu lên khi đêm tới. (C. 1-4).
Mặt trời ban ngày soi chiếu cung Tử Vi. Các quan "Tam công" đứng đầu triều đình đang dùng quyền hành để thực thi công việc. Trời và đất đều là một thể, bốn biển đang tĩnh lặng và thanh bình vì sao lại xảy ra những việc này? Câu trả lời là tập hợp quân lính ra đi đánh nước Sở! (C. 5-8).
Vượt qua sông Lô kịp đến tháng năm rồi cùng nhau đến Vân Nam đánh trận. Người lính mà hèn nhát không phải là người lính đi chiến đấu! Đi về phương nam rất là khó khăn (nên) cứ gọi dài giã từ cha mẹ! Ánh sáng mặt trời, mặt trăng chiếu soi buồn bã, đau thương! (C. 9-12).
Khóc như mưa mãi cho đến khi chảy máu mắt! Tấm lòng và sự bi thương: cả hai không lời không tiếng! Con thú bị vây hãm đến chỗ cùng sẽ dám đương đầu với loài hổ dũng mãnh; loài cá ở thế cùng phải vội vàng bơi trốn làm mồi cho cá voi! (C. 17-20).
Cả ngàn người ra đi không một ai quay trở về! Đã ném hình hài đi, mạng sống há còn chăng, giống như múa búa chỉ uổng công vô ích; giá như khiến một lần là chiếm được binh lính bộ tộc Miêu hay sao!
Tạm chuyển lục bát:
CỔ PHONG (BÀI THỨ 34)
Hịch như sao chuyển truyền mau,
Quan thành thẻ hổ
họp nhau triệu vào.
Hét hò cứu ải gấp
nào!
Kêu vang khắp chốn
vào đêm chim bầy.
Tử Vi trời chiếu
ban ngày,
Tam Công quyền
bính việc này xét soi.
Đất trời chỉ một
mà thôi!
Thanh bình bốn biển
nơi nơi yên bề.
Hỏi sao làm việc
đó chi?
Trả lời: đánh Sở
lính thì vào quân.
Vượt sông Lô kịp
tháng năm,
Cùng nhau đi đến
Vân Nam xa nào!
Hèn làm lính trận
được đâu,
Phương nam xa tít
gian lao bước đường.
Gào to từ giã
thân thương,
Đêm ngày ánh sáng
sầu buồn đớn đau!
Khóc như trút lệ
máu trào,
Tan lòng nát dạ
không sao thành lời.
Thú nhoài mệt trước
cọp rồi,
Cùng đường cá chịu
làm mồi kình thôi!
Ngàn đi về lại
không người!
Tấm thân ném bỏ, vẹn
đời được đâu?!
Múa may chiếc búa
uổng sao!
Giá như có một lần
nào dẹp Miêu!
Chú thích:
- vũ hịch 羽檄: bảng thông báo ngày xưa có treo chiếc lông gà để cho biết đây là việc gấp rút.
Yên Chiêu diên Quách Ngỗi, 燕昭延郭隗,
Kịch Tân phương Triệu chí, 劇辛方趙至,
Trâu Diễn phục Tề lai. 鄒衍復齊來。
Nại hà thanh vân sĩ, 奈何青雲士,
Khí ngã như trần ai. 棄我如塵埃。
Châu ngọc mãi ca tiếu, 珠玉買歌笑,
Tao khang dưỡng hiền tài. 糟糠養賢才。
Phương tri "hoàng hộc cử", 方知黃鵠舉,
Thiên lý độc bồi hồi. 千里獨徘徊。
Lý Bạch 李白
Trịnh khách tây nhập quan, 鄭客西入關,
Hành hành vị năng dĩ. 行行未能已。
Bạch mã Hoa Sơn quân, 白馬華山君,
Tương phùng bình nguyên lý. 相逢平原里。
Bích di Cảo Trì quân, 璧遺鎬池君,
Minh niên Tổ long tử.
明年祖龍死。
Tần nhân tương vị viết, 秦人相謂曰,
Ngô thuộc khả khứ hĩ.
吾屬可去矣。
Nhất vãng Đào Hoa nguyên, 一往桃花源,
Thiên xuân cách lưu thủy. 千春隔流水。
Lý Bạch 李白
Dịch nghĩa:
Cổ phong (bài thứ ba mươi mốt).
Người khách họ Trịnh từ phía tây đi vào cửa quan ải, cứ đi đi mãi vẫn chưa dừng lại. Có bậc đạo gia từ núi Hoa Sơn cưỡi con ngựa trắng cùng gặp nhau nơi cánh đồng bằng trao cho Cảo Trì quân viên ngọc bích (c.1-5). Và (tin cho biết) sang năm ông vua thủy tổ (ám chỉ Tần Thủy hoàng) sẽ mất đi. Người nước Tần đã nói cho biết như thế (và khuyên) tôi cùng thân thuộc nên rời đi thôi! Một lần đi qua dòng nguồn suối Đào Hoa, sẽ được xa cách mãi cả ngàn mùa xuân, cứ mặc cho dòng nước chảy trôi đi (mặc cho sự đổi thay) (c.6-10).
Tạm dịch thơ:
CỔ PHONG (BÀI THỨ BA MƯƠI MỐT).
Khách Trịnh vào ải quan,
Chưa dừng, cứ đi mãi.
Ngựa trắng Hoa Sơn quân,
Đồng bằng cùng gặp gỡ.
Ngọc đưa Cảo Trì quân,
Sang năm Tổ long mất.
Báo cho biết: người Tần,
Hãy đi cùng thân thuộc.
Nguồn Đào qua một lần,
Ngàn xuân xa dòng chảy!
Chú thích:
- quan 關: cửa ải biên giới (ải quan 隘關)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét