Thứ Năm, 22 tháng 8, 2024

Ức Trai Thi Tập Của Nguyễn Trãi - Bài 45, 46, 47, 48 Và 49


ỨC TRAI THI TẬP CỦA NGUYỄN TRÃI (THỜI KỲ RA GIÚP LÊ LỢI BÌNH ĐỊNH GIẶC MINH THÀNH CÔNG VÀ LÀM QUAN)
Thầy Dương Anh Sơn

ỨC TRAI THI TẬP CỦA NGUYỄN TRÃI (THỜI KỲ RA GIÚP LÊ LỢI BÌNH ĐỊNH GIẶC MINH THÀNH CÔNG VÀ LÀM QUAN)

BÀI 45

CHÂU CÔNG PHỤ THÀNH VƯƠNG ĐỒ                           周 公 輔 成 王 圖


Ý thân phụ chính, tưởng Châu Công,                                        懿親輔政想周公,

Xử biến thùy tương Y Doãn đồng.                                            處變誰將伊尹同.

Ngọc kỷ di ngôn thường tại niệm,                                             玉几遺言常在念,

Kim đằng cố sự cảm ngôn công.                                               金滕故事敢言功.

An nguy tự nhiệm phò vương thất,                                           安危自任扶王室 ,

Tả hữu vô phi bảo thánh cung.                                                  左右無非保聖躬.

Tử Mạnh khởi năng chiêm phảng phất,                                     子孟豈能瞻彷彿,

Ủng Chiêu cận khả bả dư phong.                                              擁昭僅可把餘風.

Dịch nghĩa:

Người đảm đương công việc tốt đẹp khi phò tá, giúp đỡ vua phải nhớ đến Châu Công - Ứng biến trong công việc ai là người sánh cùng Y Doãn? - Lời để lại nơi ghế ngọc thường nghĩ đến – Dây vàng (buộc tráp ghi công), chuyện xưa cũ dám đâu để xưng công-trạng(c.1-4) –

Việc bình an hay hiểm nguy tự mình gánh vác giúp cho nhà vua - Bên phải, bên trái không ngoài việc giữ gìn và cúi mình trước vị vua sáng suốt - Tử Mạnh dám đâu chỉ có thể thoáng nhìn (nhìn xem không rõ ràng) ! – Giúp Chiêu đế chỉ là cầm giữ làn gió thừa thôi !(c.5-8)

Dịch thơ:

TRANH VẼ CHÂU CÔNG PHÒ THÀNH VƯƠNG

Phò chính tốt, nhớ Châu công,

Xử như Y Doãn sánh cùng ai đây?

Lời bên ghế ngọc nhớ rày,

Việc xưa công trạng dây vàng dám xưng!

An nguy gánh vác phò vương,

Giúp vua trái phải vẫn luôn sáng ngời.

Dám so Tử Mạnh ngang vời !

Phò Chiêu chỉ giữ gió thôi cuối làn!

Chú thích:

- Châu Công 周公: tức Châu Đán, con Văn Vương, em của Võương nhà Châu (Chu) bên Trung Hoa làm phụ chính cho cháu là Thành Vương khi còn nhỏ, giúp dẹp loạn Quản Thúc (em ruột Châu Công) được tiếng trung với vua. Khi Võ Vương 武王 ốm, ông viết các lời dặn dò bỏ vào hộp lấy dây vàng (kim đằng) buộc lại. Khi bị Quản Thúc gièm pha, ông phải lánh sang Đông Đô. Sau Thành Vương mở hộp kim đằng 金縢 thấy rõ con người ông nên cho rước về. (xem thiên Kim Đằng trong Kinh Thư 書經)

- ý 懿: tốt đẹp, đẹp đẽ.

- thân 親: tự mình đảm đương công việc.

- phụ chính 輔政: giúp đỡ, phò tá vua trong việc triều chính khi vua còn nhỏ.

- Y Doãn 伊尹: hiền sĩ đời nhà Thương bên Trung Hoa cày ruộng ở chân núi. Sau được vua Thang mời ba lần mới ra làm tướng đánh vua Kiệt hoang dâm bạo ngược. Khi vua Thang chết cháu Thái Giáp nối ngôi vô đạo đày ông đi đất Đồng ba năm, rồi hối hận đón về kinh.

- ngọc kỷ 玉几: ghế vua ngồi.

- tại niệm 在念: vẫn còn ghi nhớ, nghĩ đến (những lời vua dặn dò, chỉ bảo...)

- cảm ngôn công 敢言功 : đâu dám nói là công lao.

- câu 6: trái, phải (mọi bề, mọi việc) gánh vác, gìn giữ mọi việc không kể đến điều gì (bảo 保).

- vô phi 無非: không ngoài, chỉ là, chẳng qua là...

- thánh cung 聖躬: bâc chân tu đạt đến phẩm hạnh cao quý gọi là thánh; người luôn sáng suốt hiểu rõ,thấu đáo mọi sự cũng gọi là thánh; cung: khom thân mình, cúi mình...; thánh cung: khom thân mình, cúi mình trước vì vua sáng suốt.... (chữ “thánh cung 聖宮 ” chỉ nơi vua ở hay cũng dùng chỉ nhà vua.

- Tử Mạnh 子孟: tức Hoắc Quang đại tướng quân nhà Hán bên Trung Hoa, theo di chiếu Hán Vũ Đế phò Chiêu Đế (ủng: phò tá, giúp). Ông trải qua ba đời vua: Vũ Đế, Chiêu Đế, Tuyên Đế. Về sau đồ đảng của ông lộng hành, ông bị Tuyên Đế bắt tội tru di tam tộc nhưng công nghiệp vẫn được ghi ở Kỳ Lân Các.

- khởi 豈: dám tâu, há nào, có không...

- chiêm 瞻: ngẩng trông, ngóng xem, nhìn xem...

- phảng phất 彷: gần giống, ngang ngang, tựa hồ, giống như... (chiêm phảng phất: nhìn thoáng qua ,thoáng nhìn tựa hồ như...)

- bả 把: cái chuôi, giữ cầm....

- dư phong 餘風: làn gió thừa, cuối gió. Đây chỉ việc Tử Mạnh phò vua như ngọn gió hờ thôi ,chưa phải là kẻ tận tụy phò vua!


BÀI 46

THỨ VẬN TRẦN THƯỢNG THƯ ĐỀ 

NGUYỄN BỐ CHÁNH THẢO ĐƯỜNG                                 次韻陳尚書題院布政草堂


Nhất tâm báo quốc thượng hoàn hoàn,                                      一心報國尚桓桓 ,

Tiểu cấu mão đình thả tự khoan.                                               小構茆亭且自寬.

Vi tỉnh thối quy hoa ảnh chuyển,                                               薇省退歸花影轉,

Kim môn mộng giác lậu thanh tàn.                                           金門夢覺漏聲殘.

Cầm thư nhã thú chân kham thượng                                         琴書雅趣真堪尚,

Tùng cúc hoan minh diệc vị hàn                                               松菊歡盟亦未寒.

Hậu lạc tưởng tri chung hữu ý,                                                  後樂想知終有意,

Hảo tương sự nghiệp bách niên khan.                                       好將事業百年看.

Dịch nghĩa

Một lòng báo đền ơn nước vẫn nung nấu mạnh mẽ - Làm mái nhà tranh nhỏ để tự khuây khỏa, thong dong – Khi ở chỗ Vi Tỉnh lui về, bóng hoa đã thay đổi - Chốn Kim Môn tỉnh giấc mộng ,tiếng đồng hồ cũng đã tàn(c.1-4)

Rất đáng chuộng cho cái thú đọc sách, chơi đàn tao nhã - Việc hẹn hò vui với tùng cúc vẫn chưa nguội lạnh – “Vui sau”, tưởng phải biết rốt cùng đó là việc có suy nghĩ – Nhìn sự nghiệp trăm năm theo bên sẽ thấy tốt đẹp.(c.5-8)

Dịch thơ:

HỌA THƠ TRẦN THƯỢNG THƯ ĐỀ VỊNH

THẢO ĐƯỜNG CỦA NGUYỄN BỐ CHÁNH

Quyết đền ơn nước nung lòng,

Tự làm mái cỏ thong dong dựng nhà.

Lui Vi Tỉnh, chuyển bóng hoa,

Kim môn tỉnh mộng tiếng đưa lậu tàn.

Chuộng thay, thú nhã sách đàn,

Hẹn vui tùng cúc vẫn còn ,nguội đâu!

Nghĩ cùng là ý “vui sau”,

Trăm năm sự nghiệp xem màu tốt tươi!

Chú thích:

- thứ vận 次韻: họa lại, tiếp vần thơ một bài khác.

- hoàn hoàn 桓桓: dáng mạnh mẽ, quyết tâm.

- tiểu cấu 小構: xây dựng,làm nhà nhỏ hoặc góc mái nhà.

- mão 茆 (mao): rau thuần, cỏ tranh .

- khoan 寬: thong thả, khoan thai, rộng rãi.

- Vi Tỉnh 薇省: hay còn gọi là Vi Sảnh hoặc Trung Thư Tỉnh, hoặc Tử Vi Tỉnh vì trồng nhiều hoa Tử Vi .Đời Đường Huyền tông bên Trung Hoa đổi tên là Tử Vi tỉnh, gọi tắt là Vi tỉnh. Đây là nơi làm việc, soạn thảo, lưu trữ các công việc triều chính.Nhà Minh, Trung Hoa gọi Ty Bố Chánh là Vi Sảnh. Nhân vật họ Nguyễn làm quan Bố Chánh trong bài chưa rõ là người bạn thân nào của Nguyễn Trãi.

- hoa ảnh chuyển 花影轉: bóng mặt trời chiếu trên các bóng hoa chỉ sự thay đổi thời gian lúc ngày tàn.

- Kim Môn 金門: Đời Hán, cửa cung Vị Ương có con ngựa vàng đặt trước cung điện nên gọi là Kim Mã Môn. Gọi tắt là Kim Môn, nơi các quan đại thần chầu chực nơi để vào triều đình chầu vua .

- lậu 漏: đồng hồ ngày xưa dùng nước hoặc cát để tính giờ giấc, thời gian.

- hoan minh 歡盟: hẹn ước, thề bồi với thú vui (với tùng cúc)

- vị hàn 未寒 : chưa nguội lạnh.

- hậu lạc後樂: do chữ “tiên ưu hậu lạc” 先憂後樂 (lo trước, vui sau). Bài Nhạc dương Lâu ký Phạm Trọng Yêm đời Tống bên Trung Hoa có câu “ Tất kỳ tiên thiên chi ưu nhi ưu, Hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc” nghĩa là : Phải lo trước cái lo của thiên hạ , Vui sau cái vui của thiên hạ.

- hảo tương sự nghiệp 好將事業: sự nghiệp đi lên được tốt đẹp. (tương: đi bên cạnh, đi lên).

Bài 47

THU DẠ DỮ HOÀNG GIANG

NGUYỄN NHƯỢC THỦY ĐỒNG PHÚ                                 秋夜與黃江院若水同賦


Hồng diệp đôi đình trúc ủng môn,                                             紅葉堆庭竹擁門,

Mãn giai minh nguyệt quá hoàng hôn.                                      滿階明月過黃昏.

Cửu tiêu thanh lộ tam canh thấp,                                               九霄清露三更濕,

Tứ bích hàn tương triệt dạ huyên.                                             四壁寒螿徹夜喧.

Thiên lại ngữ thu kinh thảo mộc,                                              天籟語秋驚草木,

Ngọc Thằng đê Hán chuyển càn khôn.                                      玉繩低漢轉乾坤.

Cao trai độc tọa hồn vô mị,                                                       高齋獨坐渾無寐,

Hảo bả tân thi hướng chí luân (luận)                                         好把新詩向志論.

Dịch nghĩa:

Lá hồng chồng chất trong sân, khóm trúc che cổng - Khắp thềm trăng sáng tỏa lúc hoàng hôn đã qua – Chín tầng trời đẫm ướt hạt móc trong trẻo vào lúc canh ba - Bốn vách, tiếng ve sầu râm ran suốt đêm lạnh lẽo (c.1-4)

Tiếng sáo trời báo tin mùa thu đến làm kinh sợ cỏ cây – Sao Thằng chuyển xuống sao Hán làm thay đổi đất trời – Nơi căn phòng cao, ngồi một mình không ngủ được - Cầm bài thơ mới làm xong, bàn về chí hướng mình.(c.5-8)

Dịch thơ:

ĐÊM THU CÙNG HOÀNG GIANG

NGUYỄN NHƯỢC THỦY LÀM THƠ

Lá hồng cổng trúc đầy sân,

Khắp thềm đêm đến sáng vầng trăng lơi.

Canh ba, sương đẫm bầu trời,

Suốt đêm bốn vách ve khơi lạnh bày.

Trời thu sáo động cỏ cây,

Sao Thằng xuống Hán chuyển xoay đất trời.

Phòng cao không ngủ riêng ngồi,

Cầm bài thơ mới, chí người bàn xong.

Chú thích:

- phú 賦: làm thơ, một thể thơ cổ, đem tâm tình thổ lộ trong thơ gọi là phú, ban lệnh, nạp thuế...

- đôi 堆: đống đất, chồng chất thành đống.

- ủng 擁: đông đảo, nhiều, che đậy, bảo vệ.

- quá hoàng hôn 過黃昏: trời chiều bước vào đêm, đêm đến.

- cửu tiêu 九霄: bầu trời, chín tầng trời.

- tam canh 三更: canh ba lúc giữa khuya về sáng.

- thấp 濕: ẩm ướt, ướt đẫm.

- hàn tương 寒螿: sách Nguyễn Trãi Toàn Tập viết là “hàn cung” (蛩) chỉ con dế mùa

lạnh. Ức Trai Tập lại ghi là “hàn tương” (xem bản dịch của Hoàng

Khôi, PQVKĐTVHXB, tập thượng, Saigon, 1972, bài 66) là loại ve sầu kêu vào mùa lạnh như khi vào thu hay sang đông (xem T.Đ.Thiều Chửu).

- triệt dạ 徹夜: suốt đêm.

- thiên lại 天籟: sáo, trúc nghe vi vu từ trên trời vọng xuống (lại: sáo làm bằng trúc, từ hư không phát ra âm thanh vi vu như sáo cũng gọi là “lại”).

- ngữ thu 語秋: chỉ dấu hiệu mùa thu đến (tiếng thu, lời thu)

- Ngọc Thằng 玉繩: chòm sao cạnh sao Bắc Đẩu. Về khuya, sao chuyển xuống gần sao Hán của dải Ngân Hà

- Hán 漢: chỉ dải sao Vân Hán hoặc dải Ngân Hà hay Thiên Hà.

- cao trai 高齋: phòng dành cho kẻ thích yên tĩnh, ẩn dật.

- hồn vô mị 渾無寐: chẳng ngủ được (hồn: làm trợ từ: chẳng, đều , cùng...)

- hảo 好: tốt, làm xong việc gì.

- bả 把: cầm lấy.

- chí luận 志論: bàn về chí hướng ,quyết tâm của một người có ý chí.....


Bài 48

ĐỀ HOÀNG NGỰ SỬ MAI TUYẾT HIÊN                             題黃御史梅雪軒


Trĩ quan nga nga diện tự thiết                                                    豸冠峨峨面似鐵,

Bất độc ái mai kiêm ái tuyết.                                                     不獨愛梅兼愛雪.

Ái mai, ái tuyết ái duyên hà,                                                      愛梅愛雪愛緣何,

Ái duyên tuyết bạch mai thanh khiết.                                        愛絼雪白梅清潔.

Thiên nhiên mai tuyết tự lưỡng kỳ,                                           天然梅雪自兩奇,

Cánh thiêm đài bách chân tam tuyệt.                                        更添臺柏真三絕.

La Phù tiên tử băng vi hồn,                                                       羅浮仙子冰為魂,

Khoảnh khắc năng linh quỳnh tác tiết.                                      頃刻能今瓊作屑.

Dạ thâm kỳ thụ toái linh lung,                                                   夜深琪樹碎玲瓏,

Nguyệt hộ phong song hàn lẫm liệt.                                          月戶風窗寒凜烈.

Nhược phi phong đệ ám hương lai,                                           若非風遞暗香來,

Phân phân nhất sắc hà do biệt.                                                  紛紛一色何由別.

Tuần Chiêm bất phạ ngọc lâu hàn,                                            巡詹不怕玉樓寒,

Ngân hải diêu quang cánh thanh triệt.                                       銀海搖光更清徹.

Cửu trùng chẩn niệm cập hà manh,                                           九重軫念及遐氓,

Vạn lý cẩm y dao trú tiết.                                                          萬里錦衣遙駐節.

Sương phong quyển địa khí hoành thu,                                     霜風捲地氣橫秋,

Thân tại viêm hoang tâm ngụy khuyết.                                     身在炎荒心魏闕.

Giao nam thập nguyệt noãn như xuân,                                      交南十月煖如春,

Mộng trung chỉ hữu hoa kham chiết.                                        夢中只有花堪折.

Tương tâm thác vật cổ hữu chi,                                                 將心托物古有之,

Cao trục thâm kỳ đạo tiền triết.                                                 高躅深期蹈前哲.

Đông Pha vị trúc bất khả vô,                                                     東坡謂竹不可無,

Liêm Khê ái liên diệc hữu thuyết.                                             濂溪愛蓮亦有說.

Càn khôn vạn cổ nhất thanh trí,                                                 乾坤萬古一清致,

Bá kiều thi tứ Tây Hồ nguyệt.                                                   灞橋詩思西湖月.

Dịch nghĩa:

Mũ giải trãi dáng cao mạnh mẽ, mặt tựa sắt – Không riêng yêu mai mà còn yêu tuyết nữa – Duyên cớ nào yêu mai và yêu tuyết?! - Bởi vì tuyết trắng trong và mai thì trong sạch – (c.1-4)Mai và tuyết là hai loại kỳ lạ trong thiên nhiên - Lại thêm cái đài gỗ bách, cả ba thực sự rất tuyệt vời – Tiên ở núi La Phù hồn băng giá - Ngọc quỳnh khoảnh khắc vụn vỡ tan tành (c.5-8)– Đêm khuya khoắt cây ngọc vỡ tan lòa xòa lóng lánh – Trăng bên cửa, gió qua song lạnh buốt ghê hồn - Nếu không có gió đổi thay, hương đến lặng thầm – Làm sao phân biệt được một màu hỗn độn?(c.9-12) Tử Chiêm đi tuần tra không sợ lầu ngọc lạnh căm - Biển bạc ánh sáng lay động lại thêm trong suốt – Vua nơi chín tầng thương xót dân chúng ở vùng xa xôi - Gặp tiết, áo gấm nhà vua dừng chân trú lại nơi xa xôi ngàn dặm(c.13-16) – Gió sương cuốn đất, khí thu giăng ngang – Thân nơi chốn hoang vu xa xăm ở phương nam, nhưng lòng vẫn hướng về cửa khuyết cung vua - Miền Giao Nam tháng mười ấm như mùa xuân – Loài hoa đáng hái chỉ ở trong giấc mộng thôi (c.17-20) – Lòng trao gửi vật xưa cũ – Theo bậc hiền trí cao xa từ trước - Với Đông Pha không thể không có trúc – Liêm Khê yêu sen lại có bài thuyết lý (c.21-24)- Đất trời muôn thuở rất là trong lắng – Ý thơ nơi cầu Bá, trăng soi Tây Hồ.(c.25-26)

Dịch thơ:

ĐỀ HIÊN MAI TUYẾT CỦA HOÀNG NGỰ SỬ

Cao cao mặt sắt mũ quan,

Mai riêng yêu mến, yêu sang tuyết này.

Duyên nào yêu tuyết yêu mai?

Bởi vì tuyết trắng mai đây trong ngời!

Thiên nhiên - mai tuyết lạ rồi,

Lại thêm đài bách tuyệt vời cả ba.

Hồn tiên buốt giá núi La,

Ngọc quỳnh giây lát vụn ra tan tành.

Đêm cây ngọc vỡ long lanh,

Gió song, trăng cửa lạnh tanh vô vàng.

Nếu không gió đổi hương thầm,

Làm sao định được lan man một màu.

Tuần Chiêm lầu lạnh sợ đâu!

Trong veo lóng lánh thêm vào biển ngân

Dân xa thương xót: chín tầng,

Xe vua áo gấm dặm ngàn xa xăm,

Sương thu gió cuốn, giăng ngang,

Hướng lòng cửa khuyết, chốn hoang thân người.

Giao Nam xuân ấm tháng mười,

Loài hoa đáng hái có nơi mộng là!?

Trao lòng gửi vật xưa kia,

Theo chân hiền trí cao xa trước nào.

Đông Pha trúc chẳng thiếu đâu,

Liêm Khê có thuyết yêu loài sen thôi.

Lắng trong muôn thuở đất trời,

Ý thơ cầu Bá, trăng lơi Tây Hồ.

Chú thích:

- trĩ quan 豸冠: mũ đội đầu có hình sừng con giải trãi 解廌 của các quan bộ hình hoặc quan ngự sử.Con giải trãi chỉ có một sừng biết húc vào kẻ làm sai trái...

- thiết 鐵: chất sắt, vững bền, chắc chắn. Có thể viết theo 3 cách: 鐵 hoặc 鈇 hoặc 銕.

- nga nga 峨峨: dáng cao ráo, tráng kiện, mạnh mẽ cứng cỏi. Ngày xưa dùng chữ “nga quan bác đái 峨冠博帶” để chỉ các quan “mũ cao đai rộng” quyền uy...

- lưỡng kỳ 兩奇: cả hai đều kỳ lạ.

- cánh thiêm 更添: lại thêm vào.

- đài bách 臺柏: nơi quan ngự sử chuyên việc can gián, cố vấn cho vua có trồng nhiều cây bách.

- La Phù tiên tử羅浮仙子: tương truyền là hai ngọn núi có tiên La sơn và Phù sơn ở (thuộc Quảng Đông T.H). Chuyện xưa kể có người tên là Triệu Sư Hùng 趙師雄 đi chơi ở dãy núi La Phù gặp một người đàn bà áo trắng mời vào quán uống rượu say sưa rồi nằm ngủ ,đến khi tỉnh lại thấy mình đang nằm nơi gốc mai mới nghĩ rằng mình đã gặp người tiên!

- băng vi hồn 冰為魂: tâm hồn băng giá, lạnh lùng.

- quỳnh 瓊: ngọc quỳnh, một loại ngọc quý.

- tiết 屑: tan, vỡ vụn, sạch sẽ, vụn vặt, thèm muốn, khinh thường...

- kỳ 琪: ngọc kỳ, loại ngọc sáng đẹp.

- toái 碎: vỡ nát, vụn vằn, nhỏ mọn.

- linh lung 玲瓏: tiếng ngọc va chạm, sáng sủa, lóng lánh.

- đệ 遞: thay đổi, vòng quanh.

- phân phân 紛紛: hỗn loạn, lẫn lộn, mưa lất phất, lan man.

- biệt 別: chia lìa, xa cách, phân biệt, phân định.

- tuần 巡: xem xét, đi tuần.

- Chiêm 詹: tức Tử Chiêm, tên tự của Tô Đông Pha nhà thơ lớn đời Tống, còn có tên là Tô Thức .Thơ ông có câu: Đống hợp ngọc lâu hàn khí túc; Quang dao ngân hải huyễn sinh hoa.

- bất phạ 不怕: không sợ hãi.

- ngọc lâu 玉樓: theo cách gọi của đạo gia “ngọc lâu” (lầu ngọc): chỉ bờ vai, còn “ngân hải” chỉ đôi mắt.

- diêu 搖: lay động, chập chờn, diêu quang: ánh sang lấp lánh.

- thanh triệt 清徹: trong trẻo, trong vắt, trong suốt.

- chẩn 軫: miếng ván sau xe, chỉ chung các loại xe, đau xót, thương xót.

- hà 遐: xa rồi, đi xa, sao?

- manh 氓: dân chúng (hà manh: dân chúng ở vùng xa xôi).

- trú tiết 駐節: trú lại, ở lại khi gặp thời tiết (thay đổi)

- câu 16: xe chở vua mặc áo cẩm bào đi đến ở lại những nơi xa xôi để tìm hiểu nhân tình, đời sống dân chúng.

- viêm hoang 炎荒: chốn hoang vu ở phía nam xa xôi, ánh sáng văn minh chưa đến.

Những từ như “viêm hoang “ ,”man di” của người phương Bắc thường dùng để miệt thị ,coi khinh các dân tộc phía bắc như người Hồ,Hồi Đột..v..v và phía đông như Cao Ly, Nhật Bản hay phía nam như Đại Việt ,Chiêm Thành..v.vv..Ở đây,Nguyễn Trãi ca ngợi công đức của Lê Lợi khác với cách hành xử của vua các đời Tần, Hán, Đường, Tống, Minh, Thanh... v.v... của Trung Hoa.

- ngụy khuyết 魏闕: chỗ cao nơi vua ở, nơi triều đình hay cung vua có treo pháp lệnh

- Giao nam 交南: phía nam của nước Giao Chỉ, tên gọi nước ta thời Bắc thuộc.

- noãn 煖(# 暖): ấm áp, sưởi ấm...

- trục 躅 : theo chân, giẫm chân, dấu chân.

- đạo 蹈: theo bước, làm theo.

- 哲 triết 哲: chỉ những người hiền trí, khôn ngoan.

- câu 23: Tô Đông Pha,nhà thơ đời Tống bên Trung Hoa, có thơ: “Ăn có thể không có thịt – không thể ở không có trúc – không ăn thịt, người gầy ốm – không có tre là người tục” (ninh khả thực vô nhục, bất khả cư vô trúc, vô nhục linh nhân sấu, vô trúc linh nhân tục - 寧可食無肉,不可居無竹,無肉令人瘦,無竹令人俗).

- câu 24: Liêm Khê 漮溪: tức Chu Đôn Di 周敦頤 tên khác là Chu Nguyên Hạo 周

元皓 ,biệt danh là Chu Đôn Thực 周敦实 tự là Mậu Thúc 茂叔, một triết gia đời Tống bên T.H .Ông là học trò của hai người thầy nổi tiếng là Trình Di 程頤 và Trình Hạo 程顥. Liêm Khê có công làm cho đạo Nho thêm sống động nhờ tư tưởng Lý học đi sâu vào các vấn đề được đặt ra từ tư tưởng Khổng Mạnh. Ông cũng có thuyết “Ái liên thuyết 愛蓮說” đề cao sen như một loài hoa của người quân tử. Ông viết: Trung thông ngoại trực, bất mạn bất chi 中通外直、不蔓不枝, nghĩa là mình nên rỗng ở trong, thẳng ở ngoài, không có sợi ác, không có cành cong queo.

- trí 致: đem đến, gởi đến, hết sức, đẩy đến cùng.

- Bá Kiều 灞橋: hay còn gọi là Chiết Liễu kiều (cầu bẻ liễu), tên một cây cầu nổi tiếng bên T.H nằm trên sông Bá,phía đông thành Trường An có trồng nhiều cây dương liễu bẻ làm roi thúc ngựa tặng nhau cũng là nơi chia tay của những người ra đi, những kẻ yêu nhau phải chia tay...

- Tây Hồ 西湖: hồ nằm ở Hàng Châu,Chiết Giang, T.H. còn gọi là hồ Tiền Đường vì gần sông Tiền Đường. Ở đất Thăng Long ta cũng có một thắng tích đặt tên là Hồ Tây (Tây Hồ).

Bài 49

OAN THÁN                                                                              冤 嘆

Phù tục thăng trầm ngũ thập niên,                                             浮俗升沉五十年,

Cố sơn tuyền thạch phụ tình duyên.                                          故山泉石負情緣.

Hư danh, thật họa thù kham tiếu,                                              虛名寔禍殊堪笑,

Chúng báng cô trung tuyệt khả liên.                                         眾謗孤忠絕可憐.

Số hữu nan đào tri thị mệnh.                                                     數有難逃知是命,

Văn như vị táng dã quan thiên.                                                  文如未喪也關天.

Ngục trung độc bối không tao nhục,                                         獄中牘背空遭辱,

Kim khuyết hà do đạt thốn tiên.                                                金闕何由達寸箋.

Dịch nghĩa:

Nổi chìm trong cõi đời đã năm mươi năm – Núi xưa và khe suối đá là mối tình duyên nợ phải đành phụ bạc – Đáng cười thay chuyện danh suông mà họa lại thật – Đáng thương cho bọn đã báng bổ người tôi trung đơn độc (c.1-4)

Khó chạy khỏi số biết là do mệnh trời - Nền văn chưa bị mất nhờ ở cửa trời - Thật là nhục nhã tờ giấy viết ở mặt lưng trong ngục – Làm sao gởi lá thư nhỏ nhoi đến nơi cửa khuyết vàng đây?

Dịch thơ:

THAN NỖI OAN KHUẤT

Nổi chìm năm chục năm đời,

Núi xưa, suối đá đành thôi duyên vầy.

Danh suông, họa thật: cười thay!

Đáng thương bọn xấu báng bày người trung

Số trời biết chạy khó lòng,

Nền văn chưa mất, trông mong cửa trời.

Xem lưng giấy ngục, nhục ôi

Cửa vua sao gửi đến người lá thư?!

Chú thích:

** Đây là bài thơ được Ức Trai tiên sinh làm vào năm 1429 (năm Thuận thiên thứ 2) khi bị bắt vì bị nghi có liên can với tướng Trần Nguyên Hãn ,anh em bên ngoại của Nguyễn Trãi ,từng theo Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn nhưng bị Lê lợi bức tử vì nghi ngờ làm phản.

- phù tục 浮俗: cõi trần tục, cõi đời chìm nổi....

- cố sơn 故山: núi xưa, chỉ quê hương cũ.

- tuyền thạch 泉石: suối đá, nơi ở có suối khe, đá tảng của những người ở ẩn.

- thật 寔: sự thật, thật thà, đúng. Có cách viết khác 實.

- thù 殊: rất, quá, khác biệt....

- chúng 眾: nhiều kẻ, nhiều người, bọn....

- báng 謗: nói xấu, báng bổ, phỉ báng.

- văn 文: chỉ nước lấy văn để cai trị chủ yếu coi trọng về giáo dục con người qua kinh sách người xưa.

- ngục trung độc bối 獄中牘背: mặt lưng sau của tờ giấy viết trong ngục. Nguyễn Trãi không muốn theo gương Chu Bột đời Hán khi bị Hán Cao Tổ nghi kỵ bỏ ngục đã hối lộ quan cai ngục và được chỉ cách nhắc nói đến tên cô công chúa con dâu trưởng của ông sau lưng tờ giấy kêu oan để quan hình xem xét và tha tội. Sau việc này, Nguyễn Trãi được tha nhưng Lê Thái Tổ không còn tin dùng như trước nữa.

- thốn tiên 寸箋: lá thư nhỏ để trình lên vua hay quan trên.

Lần đến: ỨC TRAI THI TẬP – Thời kỳ sau khi bị tù oan muốn lui về ẩn dật (28 bài) (khoảng 1429 – 1437):

Bài 51, 52, 53 và 54

Dương Anh Sơn

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét