Thứ Sáu, 25 tháng 10, 2024

Thơ Chữ Hán Của Nguyễn Du - Tập 3 - Bắc Hành Tạp Lục

 


THƠ CHỮ HÁN CỦA NGUYỄN DU - TẬP 3 - BẮC HÀNH TẠP LỤC 
Thầy Dương Anh Sơn

THƠ CHỮ HÁN CỦA NGUYỄN DU - Tập 3 : BẮC HÀNH TẠP LỤC 北 行 雜 錄

Bài 3

LONG THÀNH CẦM GIẢ CA                                                龍 城 琴 者 歌

Long thành giai nhân,                                                                龍城佳人,
Tính thị bất ký thanh.                                                                 姓氏不記清.
Ðộc thiện Nguyễn cầm,                                                             獨擅阮琴,
Cử thành chi nhân dĩ Cầm danh.                                               舉城之人以琴名.
Học đắc tiên triều cung trung Cung Phụng khúc,                      學得先朝宮中供奉曲,
Tự thị thiên thượng nhân gian đệ nhất thanh.                            自是天上人間第一聲.
Dư ức thiếu thời tằng nhất kiến,                                                余憶少時曾一見,
Giám Hồ hồ biên dạ khai yến.                                                   鑑湖湖邊夜開宴.
Kỳ thời tam thất chánh phương niên,                                        其時三七正芳年,
Hồng trang yểm ái đào hoa diện.                                               紅粧晻曖桃花面.
Ðà nhan hàm thái tối nghi nhân,                                                酡顏憨態最宜人,
Lịch loạn ngũ thanh tùy thủ biến.                                              歷亂五聲隨手變.
Hoãn như sơ phong độ tùng lâm,                                               緩如疏風渡松林,
Thanh như song hạc minh tại âm.                                              清如雙鶴鳴在陰.
Liệt như Tiến Phúc bi đầu toái phích lịch,                                 烈如薦福碑頭碎霹靂,
Ai như Trang Tích bệnh trung vi Việt ngâm.                             哀如莊舄病中為越吟.
Thính giả mĩ mĩ bất tri quyện,                                                   聽者靡靡不知倦,
Tiện thị Trung Hòa Ðại Nội âm.                                                便是中和大內音.
Tây Sơn chư thần mãn tọa tận khuynh đảo,                              西山諸臣滿座盡傾倒,
Triệt dạ truy hoan bất tri bão.                                                    徹夜追歡不知飽.
Tả phao hữu trịch tranh triền đầu,                                             左拋右擲爭纏頭,
Nê thổ kim tiền thù thảo thảo.                                                   泥土金錢殊草草.
Hào hoa ý khí lăng vương hầu,                                                  豪華意氣凌王侯,
Ngũ Lăng thiếu niên bất túc đạo.                                               五陵少年不足道.
Tính tương tam thập lục cung xuân,                                          并將三十六宮春,
Hoạt tố Trường An vô giá bảo.                                                  活做長安無價寶.
Thử tịch hồi đầu nhị thập niên,                                                  此席回頭二十年,
Tây Sơn bại hậu dư Nam thiên.                                                 西山敗後余南遷.
Chỉ xích Long Thành bất phục kiến,                                         咫尺龍城不復見,
Hà huống thành trung ca vũ diên.                                              何況城中歌舞筵.
Tuyên phủ sứ quân vị dư trùng mãi tiếu,                                   宣撫使君為余重買笑,
Tịch trung ca kỹ giai niên thiếu.                                                席中歌妓皆年少.
Tịch mạt nhất nhân phát bán hoa,                                              席末一人髮半花,
Nhan sấu thần khô hình lược tiểu.                                             顏瘦神枯形略小.
Lang tạ tàn my bất sức trang,                                                     狼藉殘眉不飾粧,
Thùy tri tựu thị đương thời thành trung đệ nhất diệu.               誰知就是當時城中第一妙.
Cựu khúc thanh thanh ám lệ thùy,                                             舊曲聲聲暗淚垂,
Nhĩ trung tĩnh thính tâm trung bi.                                              耳中靜聽心中悲.
Mãnh nhiên ức khởi nhị thập niên tiền sự,                                猛然億起二十年前事,
Giám Hồ tịch trung tằng kiến chi.                                             鑑湖席中曾見之.
Thành quách suy di nhân sự cải,                                                城郭推移人事改,
Kỷ xứ tang điền biến thương hải.                                              幾處桑田變滄海.
Tây Sơn cơ nghiệp tận tiêu vong,                                              西山基業盡消亡,
Ca vũ không di nhất nhân tại.                                                    歌舞空遺一人在.
Thuấn tức bách niên năng kỷ thì,                                               瞬息百年能幾時,
Thương tâm vãng sự lệ triêm y.                                                 傷心往事淚沾衣.
Nam Hà quy lai đầu tận bạch,                                                    南河歸來頭盡白,
Quái để giai nhân nhan sắc suy.                                                 怪底佳人顏色衰.
Song nhãn trừng trừng không tưởng tượng,                              雙眼瞪瞪 空想像,
Khả liên đối diện bất tương tri.                                                  可憐對面不相知.

Dịch nghĩa:

Người con gái xinh đẹp đất Long Thành, - Họ tên không nhớ rõ ràng.
- Thạo riêng loại đàn Nguyễn, - Nên hết thảy người trong thành đều gọi tên Cầm. - Nàng đã học trong cung khúc “Cung Phụng” từ triều trước, - Đây là khúc nhạc hay nhất cõi trời cao và của cõi người ta! - Ta nhớ thuở còn trẻ từng gặp gỡ, - Bên hồ Giám trong buổi tiệc về đêm, - Bấy giờ nàng khoảng hai mươi mốt tuổi. (c.1-9)

Gương mặt màu hoa đào thấp thoáng trong nét tô vẽ điểm trang màu
hồng, - Mặt ửng đỏ ngây ngất vì rượu dáng vẻ rất thích hợp. - Bàn tay nắn phím thay đổi theo sự rộn ràng của năm cung, - Tiếng đàn chậm rãi như gió thoảng đi qua rừng thông. - Trong trẻo như đôi chim hạc kêu lên từ chốn tối tăm xa mờ, - Mạnh mẽ như bia Tiến Phúc bị sét đánh vỡ tan ở đầu, - Buồn bã như Trang Tích lúc bệnh vẫn ngâm nga tiếng Việt. - Người nghe theo mãi không hề biết mệt, - Đó là tiếng nhạc Trung Hòa trong đại nội. - Các quan lại Tây Sơn ngồi đông đủ hết thảy đều mê say nghiêng ngả, (c.10-19)

Vui chơi suốt đêm chẳng biết chán!, - Bên phải, bên trái đua nhau ném tiền thưởng, - Tiền bạc trông rối ren khác gì đất bùn! - Sự hào hoa rộng rãi có dáng vẻ lấn hẳn những kẻ vương hầu, - Đám thiếu niên Ngũ Lăng không đủ sức theo. – Gộp lại ba mươi sáu cung mang sắc xuân, - (nơi nàng) làm nên vật báu rất quý giá tại chốn Tràng An.
Ngoảnh đầu lại, buổi tiệc hồi ấy đã hai mươi năm rồi, - Khi nhà Tây Sơn bị bại, ta cũng chuyển đi vào phía nam. - Đất Long Thành trong gang tấc cũng không còn được trông thấy nữa!, - Huống chi người đã ca múa ở buổi tiệc rượu trong thành (thuở ấy). (c.20-30)

Quan Tuyên phủ (nay) vì ta trang trọng bày ra cuộc mua vui, - Chiếu
giữa là những cô ca kỹ đều ở tuổi niên thiếu. - Chiếu cuối cùng là một người tóc hoa râm,- Với nhan sắc xấu xí, gương mặt khô khan, thân hình nhỏ bé gầy gò. - Hàng lông mi lộn xộn bơ phờ chẳng hề trang điểm, - Nào ai biết đây là người giỏi giang nhất trong thành thuở bấy giờ! - Âm thanh khúc hát cũ từng tiếng làm lệ âm thầm tuôn rơi , - Tai lặng lẽ nghe mà trong lòng buồn bã. - Bỗng nhiên, sực nhớ lại chuyện hai mươi năm trước, - Nơi bữa tiệc ở hồ Giám đã từng gặp gỡ. – (c.31-40) 

Thành quách dời đổi hư hao, con người đổi thay,- Biết bao nhiêu ruộng dâu đã thành biển cả! - Nhà Tây Sơn cơ nghiệp đã tiêu tan mất hết!,- Chỉ còn lại một người trong làng ca múa. - Thấm thoắt trăm năm có bao lăm, - Lòng (ta) thương cảm việc cũ lệ đẫm ướt áo. - Từ nam quay về lại, đầu đã bạc phau hết rồi, - Trách chi người đẹp nhan sắc sao chẳng tàn phai! - Đôi mắt đăm đăm tưởng chừng nhìn về chốn xa xăm, - Khá thương thay mặt giáp nhau mà không hề nhận biết nhau. (c.41-50)

Tạm chuyển lục bát:

BÀI CA “NGƯỜI CHƠI ĐÀN Ở LONG THÀNH”

Người xinh ở đất Long Thành,
Họ tên chẳng nhớ ngọn ngành ra sao.
Thạo riêng đàn Nguyễn một tao,
Gọi tên Cầm mãi biết bao nhiêu người!
Khúc “Cung Phụng” học triều rồi,
Là khúc hay nhất trên đời đó thôi!
Nhớ từng gặp gỡ thiếu thời,
Kề bên Hồ Giám tiệc mời về đêm.
Hai mươi mốt tuổi hoa niên,
Mặt hoa đào thoáng bày lên má hồng.
Mặt người ửng đỏ say lòng,
Bàn tay nắn phím năm cung rộn ràng.
Rừng thông gió thoảng lúc khoan,
Trong như đôi hạc vang vùng xa xăm.
Mạnh như sét đánh bia tan!
Bệnh ngâm tiếng Việt họ Trang khi buồn.
Người nghe chẳng mệt theo luôn,
Trung Hòa Đại Nội trong cung tiếng này.
Tây Sơn quan chức nghiêng say,
Cuộc chơi chẳng chán chơi hoài đêm thâu!
Thưởng ban tả hữu đua nhau,
Vãi vung tiền bạc khác đâu đất nhàu!
Hào hoa hơn hẳn vương hầu,
Ngũ Lăng trai trẻ chẳng sao theo cùng.
Gộp chung băm sáu nội cung,
Làm nên vật báu vô cùng Trường An.
Ngoảnh đầu hai chục năm sang,
Khi Tây Sơn bại, phía nam chuyển vào.
Long Thành gang tấc thấy đâu!
Huống hồ tiệc rượu cô đào múa ca.

* *
Mua vui, Tuyên phủ vì ta,
Mấy cô trẻ tuổi hát ca tiệc ngồi.
Hoa râm chiếu cuối một người,
Thân hình bé nhỏ da mồi khô khan.
Bơ phờ mày chẳng điểm trang,
Ai hay khéo nhất giỏi giang trong thành.
Lệ thầm khúc cũ chảy quanh,
Tai nghe lặng lẽ, lòng mình sầu khơi.
Bỗng nhiên nhớ chuyện đôi mươi,
Tiệc tùng Hồ Giám gặp nơi chốn này.
Chuyện người, thành quách đổi thay,
Nương dâu bao chốn đã bày biển khơi!
Tây Sơn cơ nghiệp tiêu đời,
Trong làng ca múa một người còn đây.
Trăm năm thoáng chốc qua ngay,
Chuyện xưa lệ đẫm áo này lòng đau.
Từ nam ra tóc bạc phau,
Lạ chi người đẹp nhuốm màu tàn thôi!
Đăm đăm đôi mắt xa xôi,
Khá thương đối mặt chẳng đời nào hay.

Chú thích:

** Trong phần “Tiểu dẫn 小引” của bài thơ, Nguyễn Du đã giới thiệu rõvề cô gái chơi đàn đất Long Thành , chúng ta có thể tóm tắt: “Cô gái chơi đàn đất Long thành” là người từng học “đàn Nguyễn” (Nguyễn cầm) trong đội nữ nhạc của vua Lê. Khi quân Tây Sơn ra bắc diệt vua Lê chúa Trịnh, đội nhạc cũng tan rã mỗi người một hướng. Nhờ vóc dáng dù không đẹp lại hơi đẫy đà nhưng khéo trang điểm cùng với ngón đàn “Nguyễn” gồm những bài nhạc trong cung cấm dành cho vua nghe, nàng trở nên nổi tiếng ở đất Long Thành.
Khi còn trẻ Nguyễn Du đến kinh thành thăm anh là Nguyễn Nễ làm quan cho Tây Sơn, gần hồ Giám. Cạnh hồ, quan Tây Sơn có tổ chức tiệc lớn có mời các cô đào hát trình diễn mua vui và ông đã được gặp cô đào hát thạo “đàn Nguyễn” nên ai cũng gọi là cô Cầm ở buổi tiệc này. Hai mươi năm sau khi phụng mệnh vua Gia Long đi sứ Trung Hoa được quan Tuyên phủ mời tiệc và bất chợt nghe lại ngón đàn không thể nào quên được thưở nào. Nhìn lại người chơi đàn thân hình đều tiều tụy xơ xác, áo quần bạc thếch vá viú nên lòng cảm thương vô hạn về sự đổi thay biến dời của cuộc đời người mà làm ra bài ca này.

** Do bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du có nhiều bản ghi lại với nhiều chỗ có các từ khác nhau nên chọn bài thơ chữ Hán do Nguyễn Thạch Giang và Trương Chính biên khảo (NXB Fahasa phát hành, Saigon 1999, tr. 978 và 979) được xem là chuẩn xác để soạn dịch và đối chiếu thêm với bài thơ L.T.C.G.C. trong tác phẩm “Tố Như Thi” của Quách Tấn (NXB An Tiêm, Saigon, 1973, từ tr. 232 đến 242)
- bất ký thanh 不記清: không nhớ rõ (thanh: trong sáng, thanh lọc, rõ ràng...)
- độc thiện 獨善: thành thạo riêng về một việc nào đó.
- Nguyễn cầm 阮琴: còn gọi là đàn nguyệt được chế tác bởi Nguyễn Hàn đời Tấn bên Trung Hoa nên cũng được gọi là đàn Nguyễn.
- cử thành 舉城: hết cả thành (cử: đều, cả, vút lên...)
- yểm ái 晻曖: mờ mịt, không rõ ràng, thấp thoáng.
- đà nhan 酡顏: gương mặt ửng đỏ vì men rượu.
- hàm 憨: si ngốc, ngu đần, ngây dại, thơ ngây...
- thái 態: vẻ dáng bề ngoài, biểu hiện.
- nghi nhân 宜人: người thích hợp, phù hợp.
- lịch loạn 歷亂: rối ren, lộn xộn, hỗn tạp, rộn ràng.
- thủ biến 手變: bàn tay biến hóa thay đổi (cung đàn)...
- tại âm 在陰: ở vùng tối tăm xa mờ, ở chốn xa xăm mờ nhạt...
- phích lịch 霹靋: sấm sét,sét đánh bất ngờ...
- đầu toái 頭碎: phía trện đầu bị vỡ vụn nát tan...
- Tiến Phúc bi 荐福碑: bia nằm ở chùa Tiến Phúc (Giang Tây, Trung Hoa) có nét khắc chữ đẹp. Phạm Trọng Yêm đời Tống (T.H) làm quan ở Bá Dương muốn giúp đỡ học trò nghèo thơ hay, chữ giỏi nên cho dập bia một nghìn bản để học trò nghèo bán lấy tiền. Việc chưa làm thì một đêm bia bị sét đánh tan tành.
- Trang Tích 莊舄: xem CT bài 31 “Mi Trung Mạn Hứng” trong Thanh Hiên Tiền Hậu Tập.
- mĩ mĩ 靡靡: thuận theo, theo dõi, tùy thuận, từ từ, chậm rãi, hết tận...
- Trung Hòa 中和: tên một cung điện thời nhà Lê ở Thăng Long. Bên Trung Hoa thời nhà Thanh cũng có cung Trung Hòa ở trong thành Bắc Kinh.
- bão 飽: no nê, chán chê, tràn trề...
- triền đầu 纏頭: quấn quanh đầu. Do tích đời nhà Đường bên Trung Hoa vua đãi tiệc ban thưởng gấm vóc quấn quanh đầu cho những ai múa hay.
- thảo thảo 草草: dáng mệt mỏi, rối ren, lộn xộn.
- hào hoa 豪花: cách sống rộng rãi của người giàu có, dư dã.
- lăng 凌: vượt lên, hơn hẳn, vượt trội.
- Ngũ Lăng 五陵: năm lăng tẩm của các vua đời Hán có nhà của những kẻ giàu có sang trọng làm gần đó.
- Câu 21 và 22 Nguyễn Du mượn ý của Bạch Cư Dị trong Tì Bà Hành “Ngũ Lăng niên thiếu tranh triền đầu...”
- hoạt tố 活做: tạo ra, làm nên một vật hay một người có sức sống lôi cuốn (hoạt: sức sống; tố: làm ra, tạo nên).
- tịch 席: chiếu ngồi, cũng dùng để chỉ tiệc đãi khách ngày xưa vẫn hay ngồi trên các chiếc chiếu ...
- dư 余: dư thừa, lẻ, tôi, ta...
- Tuyên phủ sứ quân 宣撫使君: quan trấn thủ Bắc thành khi tiếp đón
Nguyễn Du với vai trò là quan chánh sứ đi qua Trung Hoa triều Thanh năm 1813.
- trùng mãi tiếu 重買笑: trang trọng (bày ra) cuộc mua vui.... (trùng: lần nữa, hai lần, nặng, coi trọng, trang trọng, chuộng, quá...) (mãi tiếu: mua tiếng cười, mua vui...)
- nhan sấu thần khô 顏瘦神枯: nhan sắc xấu xí ốm gầy và gương mặt khô khan.
- lang tạ 狼藉: bộn bề, bừa bãi, lộn xộn, thiếu chăm chút.
- thanh thanh 聲聲: âm thanh vang lên từng tiếng một.
- ám 暗: không rõ, không hay biết, tối tăm, mờ nhạt, ngầm, âm thầm, kín đáo.
- mãnh nhiên 猛然: bất chợt, bỗng nhiên.
- Giám Hồ 鑑湖: Hồ Giám tức hồ Gươm, giữa hồ có gò đất đặt tên Kim Châu. Hồ nằm gần di tích Văn Miếu và Quốc Tử Giám.
- không di 空遺: vắng vẻ và mất mát...
- thuấn tức 瞬息: nháy mắt, thoáng chốc, nhấp nháy....
- quái để 怪底: trách sao, lạ sao, không lấy làm lạ...
- trừng trừng 瞪瞪 trừng trừng: mắt nhìn đăm đăm nhìn vào một hướng nào đó.
- không tưởng tượng 空想像: khoảng không gian xa xăm nào đó trong trí não.

(Lần đến: BHTL – Bài 4 và 5)

Dương Anh Sơn



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét