THƠ ĐỖ PHỦ - BÀI 83 VÀ 84
Thầy Dương Anh Sơn
THƠ ĐỖ PHỦ
Bài 83
TÂN AN LẠI 新安吏
Khách hành Tân An đạo, 客行新安道,
Huyên hô văn điểm binh. 喧呼聞點兵,
Tá vấn Tân An lại, 借問新安吏,
Huyện tiểu cánh vô đinh? 縣小更無丁?
Phủ thiếp tạc dạ há, 府帖昨夜下,
Thứ tuyển trung nam hành. 次選中男行。
Trung nam tuyệt đoản tiểu, 中男絕短小,
Hà dĩ thủ vương thành? 何以守王城?
Phì nam hữu mẫu tống, 肥男有母送,
Sấu nam độc linh sính. 瘦男獨伶俜。
Bạch thuỷ mộ đông lưu, 白水暮東流,
Thanh sơn do khốc thanh. 青山猶哭聲。
Mạc tự sử nhãn khô, 莫自使眼枯,
Thu nhữ lệ tung hoành. 收汝淚縱橫。
Nhãn khô tức kiến cốt, 眼枯即見骨,
Thiên địa chung vô tình! 天地終無情。
Ngã quân thủ Tương Châu, 我軍取相州,
Nhật tịch vọng kỳ bình. 日夕望其平。
Khởi ý tặc nan liệu, 豈意賊難料,
Quy quân tinh tản doanh. 歸軍星散營。
Tựu lương cận cố luỹ, 就糧近故壘,
Luyện tốt y cựu kinh. 練卒依舊京。
Quật hào bất đáo thuỷ, 掘壕不到水,
Mục mã dịch diệc khinh. 牧馬役亦輕。
Huống nãi vương sư thuận, 況乃王師順,
Phủ dưỡng thậm phân minh. 撫養甚分明。
Tống hành vật khấp huyết, 送行勿泣血,
Bộc xạ như phụ huynh! 僕射如父兄。
(Tân An, 759)
Dịch nghĩa:
Khách đi trên đường lộ Tân An, - Nghe tiếng ồn ào gọi lớn chỉ định người đi lính! – (Ta) xin hỏi viên nha lại Tân An, - (Trả lời:) “Huyện
nhỏ thay thế lớp trai trẻ đã không còn ai !(c.1-4)
Đêm qua trên phủ đưa thiếp xuống, - Chọn lựa lần lượt đến hạng đàn ông trung niên.” – (hạng)Trung nam rất là thấp bé quá! – Làm sao giữ được thành vua? (c.5-8)
Trai tráng mập mạp có mẹ đưa tiễn, - Trai gầy ốm đi đứng không ngay ngắn. – Trời chiều tối,dòng nước trắng xóa chảy về phía đông, - Ngọn núi xanh vẫn còn vang tiếng khóc lớn! (c.9-12)
Chớ khiến cho mắt mình ráo khô! – Gom lấy nước mắt của mày đang chảy dọc ngang! - Mắt ráo khô thấy ngay cái cốt lõi: - Trời đất rốt cuộc mãi là (kẻ) dửng dưng, thờ ơ! (c.13-16)
Quân của ta đã lấy Tương Châu, – Ngày đêm mong ngóng cho thanh bình. - Há sao ý định của quân giặc rất khó định liệu thế!, - Quân trở về nhiều và tản mát nơi các trại đóng quân. (c.17-20)
Thức ăn (của quan quân) để gần bên các tường lũy cũ, - Rèn luyện quân lính y như ở chốn kinh đô. – Đào hào không đến chỗ có nước, - Chuyện chăm sóc ngựa cho việc quân cũng coi nhẹ! (c.21-24)
Huống chi quân của vua cũng thuận theo, - Vỗ về nuôi nấng rất rõ ràng sáng tỏ! – Khi đưa tiễn chớ nên khóc lóc đau đớn! – Quan bộc xạ khác chi cha anh (trong nhà)! (c.25-28)
Tạm dịch:
KẺ LẠI Ở TÂN AN
Khách đi đường Tân An,
Chọn lính nghe ầm ĩ.
Hỏi kẻ lại Tân An,
“Huyện nhỏ , trẻ đã hết!
Thiếp phủ xuống đêm qua,
Hạng trung nam dần chọn.”
Trung nam nhỏ thấp là,
Thành vua sao giữ được!?
Trai mập, mẹ tiễn con,
Nam gầy đi đơn lẻ.
Sông trắng tối xuôi đông,
Non xanh còn tiếng khóc!
Chớ khiến mình mắt khô,
Hãy gom lệ dọc ngang.
Khô mắt thấy tận cốt!
Trời đất mãi không tình!
Tương Châu quân ta giữ,
Ngày đêm mong thanh bình.
Ý định giặc khó liệu!
Quân về rải trại doanh.
Lương theo gần lũy cũ,
Rèn quân lối kinh xưa!
Đào hào không đến nước!
Chăn ngựa quân, coi nhẹ.
Huống chi quân vua thuận!
Vỗ quân, nuôi tỏ rành.
Khóc tiễn chớ đau đớn,
Bộc xạ như cha anh!
Chú thích:
** Trong lời đầu cho bài thơ này, Đỗ Phủ có viết: “ Thu kinh hậu tác, tuy thu lưỡng kinh ,tặc do sung xích 收京後作, 雖收兩京, 賊猶充斥 (nghĩa là: Làm sau khi lấy lại kinh đô, tuy lấy được hai kinh nhưng giặc vẫn còn đầy rẫy, đang bị ruồng đuổi!)
- Tân An 新安: nằm gần kinh đô Lạc Dương thời Đường, nay là Hà Nam bên Trung Hoa.
- huyên hô 喧呼: kêu lớn gây huyên náo, ồn ào, ầm ĩ...
- điểm binh 點兵: chọn lựa, chấm, chỉ định người ra quân đi lính...
- cánh vô đinh 更無丁: càng không còn người trai tráng (đinh: con trai tuổi trưởng thành có thể đảm nhận công việc...)
- thiệp (thiếp) 帖: tấm thiếp viết vào lụa để truyền đạt hay sao chữ trên bia đá...; Phủ thiếp 府帖: thiếp truyền lệnh từ phủ quan xuống huyện...
- tạc dạ 昨夜: tối hôm qua.
- thứ tuyển 次選: tuyển chọn lần lượt từ trên trở xuống (thứ) theo hạng bậc (hành 行 = hàng, hạng.)
- trung nam 中男: đàn ông tuổi trung niên khoảng 30 đến 50 tuổi...
- tuyệt đoản tiểu 絕短小: rất thấp và nhỏ con.
- phì nam 肥男: trai mập mạp, to con...
- sấu nam 瘦男: trai gầy ốm, nhỏ người.
- linh sính 伶俜: đi đứng không ngay ngắn, dáng đi của người đơn độc, lẻ loi...
- mạc 莫: đừng, chớ, không phải, không thể, không được...
- nhãn khô 眼枯: mắt ráo khô vì buồn bã, khóc nhiều...
- tức kiến cốt 即見骨: tức thì thấy ngay cái cốt tướng, cái cốt lõi (của thiên địa, trời đất...)
- chung 終: rốt cuộc, sau hết, sau cùng, mãi mãi, luôn, đã...
- vô tình 無情: không có tình cảm, dửng dung, thờ ơ, lạnh nhạt...
- Tương Châu 相州: tên cũ là Úng Châu 雍州 (Việt Nam gọi là Ung Châu 邕州 . Thời nhà Lý, tướng Lý Thường Kiệt từng đem quân sang đánh Ung Châu, nay là Nam Ninh) được Tây Ngụy Cung đế (554-556) đổi thành Tương Châu có trị sở ở thành cổ Tương Dương bên Trung Hoa.
- tinh tản 星散: rải rác và tản ra...
- tựu lương 就糧: thức ăn của quân lính (lương) thuận theo nơi đóng quân (tựu).
- câu 22, 23 và 24: Đỗ Phủ nhận xét: - cách luyện quân nhà Đường vẫn theo lối cũ, không thay đổi với binh lực của An Lộc Sơn (c.22).-Việc giữ thành cần phải đào hào (quật hào 掘壕) quanh thành có nước chảy quanh để hỗ trợ ngăn giặt đánh chiếm thành. Ở đây quan binh sơ suất cho đào hào phòng thủ lại không đào đến chỗ có nước cho chảy vào hào quanh thành! (c.23).-
Việc chăn ngựa cho đủ sức tham gia chiến trận cũng bị coi nhẹ( diệc khinh 亦輕) ,ảnh hưởng chuyện xung trân đánh đuổi quân giặc...(c.24)
- khinh 輕: nhẹ nhàng ,dễ dàng, giản dị; nghĩa khác là xem nhẹ, coi khinh,khinh bỉ...khi Đổ Phủ nhận xét việc chăn ngựa lo việc quân chưa tốt.
- dịch 役: đi lính thú đóng ngoài biên giới, việc quân, lao dịch bị sai khiến mệt nhọc...
- huống nãi 況乃: huống chi là...
- vương sư 王師: quân đội của nhà vua..
- thuận 順: hợp lẽ phải, thuận lòng dân, có chính nghĩa, suôn sẻ, thuận theo, thích hợp....
- phủ dưỡng 撫養: vỗ về và nuôi dưỡng...
- thậm phân minh 甚分明: rất là rõ ràng, rất sáng tỏ rành rành..
- khấp huyết 泣血: khóc chảy máu mắt, khóc đau đớn...
- bộc xạ 僕射: chức quan võ giỏi bắn cung tên, thường làm người hầu cận cho vua và được chỉ định tham dự việc quân khi cần...
Bài 84
TRUNG THU 中秋
Thu cảnh kim tiêu bán, 秋景今宵半,
Thiên cao nguyệt bội minh. 天高月倍明.
Nam lâu thùy yến thưởng, 南樓誰宴賞,
Ti trúc tấu thanh thanh. 絲竹奏清聲 .
Dịch nghĩa:
Cảnh thu đêm nay đã được nửa mùa rồi, - Trời cao trăng sáng gấp nhiều lần! – Nơi lầu nam có yến tiệc để thưởng cho ai đây? – Tiếng đàn và sáo tấu lên thanh thoát trong trẻo.
Tạm chuyển lục bát:
TRUNG THU
Đêm nay đã nửa thu rồi,
Trăng càng sáng tỏ giữa trời vút cao!
Lầu nam tiệc thưởng ai nào??
Tiếng tơ tiếng trúc tấu sao trong ngần!
Chú thích:
- nguyệt bội minh 月倍明: trăng sáng gấp nhiều lần.
- ti trúc 絲竹: tơ và trúc. Tơ để căng dây cho đàn, trúc để làm sáo thổi. Chỉ việc dùng nhạc khí để hòa tấu âm nhạc.
(Lần đến: THƠ ĐỖ PHỦ - bài 85 và 86)
Dương Anh Sơn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét