Thứ Tư, 16 tháng 10, 2024

Thơ Lý Bạch - Bài 105 Và 106

 


THƠ LÝ BẠCH - BÀI 105 VÀ 106
Thầy Dương Anh Sơn

THƠ CỦA LÝ BẠCH

Bài 105

CỔ LÃNG NGUYỆT HÀNH                                                   古朗月行

Tiểu thì bất thức nguyệt,                                                            小時不識月,
Hô tác bạch ngọc bàn.                                                                呼作白玉盤。
Hựu nghi Dao Đài kính,                                                             又疑瑤臺鏡,
Phi tại thanh vân đoan.                                                              飛在青雲端。
Tiên nhân thuỳ lưỡng túc,                                                          仙人垂兩足,
Quế thụ tác đoàn đoàn.                                                              桂樹作團團。
Bạch thố đảo dược thành,                                                          白兔搗藥成,
Vấn ngôn dữ thuỳ xan.                                                               問言與誰餐。
Thiềm thừ thực viên ảnh,                                                           蟾蜍蝕圓影,
Đại minh dạ dĩ tàn.                                                                    大明夜已殘。
Nghệ tích lạc cửu ô,                                                                   羿昔落九烏,
Thiên nhân thanh thả an.                                                            天人清且安。
Âm tinh thử luân cảm,                                                               陰精此淪感,
Khứ khứ bất túc quan.                                                               去去不足觀。
Ưu lai kỳ như hà,                                                                       憂來其如何,
Thê sảng tồi tâm can.                                                                 淒愴摧心肝。

Dịch nghĩa:

Thời còn bé không biết về trăng, - Gọi là cái mâm ngọc trắng! – Lại còn ngờ là tấm kính ở chốn Dao Đài! - Bay đến chốn các tầng mây xanh! (c.1-4)

Người tiên buông rủ hai chân, - Cây quế tạo thành dáng tròn trịa. - Thỏ trắng giã thuốc đã xong, - Hỏi là ai cùng nếm thuốc đây? (c.5-8)

Con cóc gặm cái bóng trăng tròn, - Ánh sáng về đêm đã lụi tàn. - Hậu Nghệ xưa kia đã bắn rụng xuống chín mặt trời, - Người ở trời trong trắng lại vừa yên lành. (c.9-12)

Vầng trăng trắng tinh đó đang chìm đắm trong niềm thương cảm! – Qua đi không thể trông thấy nữa! – Buồn lo ấy như thế nào? – Đau đớn xót thương như hủy hoại cõi lòng! (c.13-16)

Tạm chuyển lục bát:

BÀI HÀNH VỀ VẦNG TRĂNG SÁNG THUỞ XƯA

Thưở còn nhỏ,chẳng biết trăng!
Hô lên: Mâm ngọc trắng toang kia này!
Lại ngờ gương chốn Dao Đài,
Lượn bay trên đám mây xanh tầng trời,
Người tiên chân thả buông lơi,
Dáng cây quế cũng tròn thôi là tròn!
Thỏ màu trắng giã thuốc xong,
Hỏi ai sẽ nếm thuốc cùng với nhau?
Bóng tròn con cóc khoét vào,
Đêm vằng vặc sáng, mòn hao tàn rồi!
Chín trời, xưa Nghệ bắn rơi,
Người trời trong sáng yên vui an nhàn.
Đắm chìm thương cảm vầng trăng!
Ngắm nhìn chẳng được trôi dần qua mau.
Lo buồn đến thế tại sao?!
Sầu thương tổn hại buồn đau cõi lòng!

Chú thích:

- Hành 行: một loại thể thơ cổ xưa có nguồn gốc từ Nhạc phủ đời nhà Hán bên Trung Hoa .Thể thơ không hạn chế câu chữ; niêm, đối không gò bó chặt chẽ như Thất ngôn bát cú của Đường luật. Thường mang tính trữ tình hay tự sự. Chẳng hạn “Binh xa hành” của Đỗ Phủ, “Đoản ca hành” của Lý Bạch, “Tỳ Bà hành” của Bạch Cư Dị... v.v... bên Trung Hoa. Nước ta, nhà thơ Nguyễn Du có những bài như: “Sở kiến hành”, “Trở binh hành”, “Dự Nhượng kiều chủy thủ hành”, “Bất tiến hành”... v.v... (trong Bắc Hành Tạp Lục)...
- cổ lãng nguyệt 古朗: vầng trăng sáng sủa ,rực rỡ (lãng) thời trước (cổ).
- hựu nghi 又疑: lại còn nghi ngờ, lại còn ngờ (nghi: lấy làm lạ, do
dự, không tin, nghi ngại....)
- Dao Đài 瑤臺: tên một nơi có các tiên nhân sinh sống (theo những người theo đạo thần tiên hay Lão giáo).
- thanh vân đoạn 青雲端: tầng mây xanh trên trời.
- đoàn đoàn 團團: tròn trịa, tròn trỉnh, rất tròn, cuộn tròn lại, tập hợp, tụ lại, sum vầy, ngưng đọng... v.v...
- bạch thố 白兔, thiềm thừ 蟾蜍: trong truyện cổ tích bên Trung Hoa về Hằng Nga (Thường Nga) khi bay lên cung trăng thường sinh hoạt với thỏ trắng làm việc giã thuốc cho Hằng Nga và con thiềm thừ (con cóc) bên cạnh. (xem thêm C.T bên dưới: Nghệ)
- đảo dược 搗藥: giã, đập, nện, dần... thuốc.
- thực 蝕: đục khoét, gặm nhắm làm cho hao mòn...
- đại minh dạ 大明夜: ánh sáng về đêm tức ánh trăng sáng tỏ nhất là khi đến ngày rằm...
- Nghệ 羿: tức Hậu Nghệ 后羿 hoặc Đại Nghệ 大羿 là một nhân vật
của truyền thuyết cổ đại của Trung Hoa. Theo truyền thuyết này, Nghệ là một cung thủ rất tài giỏi, có vợ là Hằng Nga cùng sống trên thượng giới. Ngọc Hoàng có mười con trai một hôm biến thành mười mặt trời làm cho trái đất cằn khô, nóng bỏng.
Ngọc Hoàng ngăn trở con mình phá phách không được bèn triệu Hậu Nghệ vào giao việc chấn chỉnh các vị con trời! Nghệ đã ra tay bắn hạ hết chín ông mặt trời, chỉ để lại một ông mặt trời điều hòa trái đất. Ngọc Hoàng thượng đế thấy chín người con bị giết nên đày cả hai vợ chồng xuống trần gian. Hằng Nga rất buồn khi không còn khả năng bất tử như ở thiên giới. Hậu Nghệ đã tìm gặp Tây Vương Mẫu,người đứng đầu các vị tiên xin được một hoàn thuốc giúp bất tử. Tây Vương Mẫu dặn rằng chỉ cần nửa viên cho mỗi người là đủ bất tử!. Hậu Nghệ đem về bỏ vào hộp cất và dặn kỹ Hằng Nga lời dạy của Tây Vương Mẫu. Khi Nghệ đi săn, trên đường về nhà khi Hằng Nga đang tò mò mở hộp đựng hoàn thuốc. Thấy Nghệ, Hằng Nga giật mình bỏ vào miệng nguyên hoàn thuốc. Vì thuốc mạnh, Hằng Nga bay nhanh đến cung trăng. Nghệ thấy Hằng Nga bay lên, không nỡ lòng bắn Hằng Nga. Cũng theo truyền thuyết này,mặt trời có con quạ nên gọi là “ô” cũng là cách gọi mặt trời. Còn Nghệ với tài bắn cung hạ mặt trời được gọi là Hậu Nghệ xạ nhật 后羿射日 hay Hậu Nghệ xạ ô 后羿射烏.
- âm tinh 陰精: âm thường dùng chỉ mặt trăng và dương để chỉ mặt
trời; tinh: trắng tinh, sự tinh tế, tinh túy khi bỏ đi cái xấu, thô... v.v... Có nhiều nghĩa về chữ “âm tinh”, riêng bài thơ này, Lý Bạch dùng chữ “âm tinh” để nói đến cái đẹp trong trắng của vầng trăng sáng....
- luân cảm 淪感: chìm đắm trong niềm cảm thương. Có nhiều bản ghi là “luân hoặc 淪惑”, có lẽ do cùng bộ tâm 心 nhưng nét từa tựa như nhau,chữ “hoặc” thiếu một nét[惑-感]
- khứ khứ 去去: qua đi, trôi đi mãi..
- bất túc 不足: không thể, không đủ, không đáng, không khó...
- như hà 如何: thế nào, tại sao, cách nào, làm sao...
- thê sảng 淒愴: đau đớn, thương xót
- tồi 摧: bẻ gãy. làm cho thương tổn, hủy hoại, phá vỡ...
- tâm can 心肝: tim và gan, để chỉ cõi lòng, tận đáy lòng con người...

BÀI 106

ĐOẢN HÀNH CA                                                                     短歌行

Bạch nhật hà đoản đoản,                                                            白日何短短,
Bách niên khổ dị mãn.                                                               百年苦易滿。
Thương khung hạo mang mang,                                                蒼穹浩茫茫,
Vạn kiếp thái cực trường.                                                          萬劫太極長。
Ma cô thuỳ lưỡng mấn,                                                              麻姑垂兩鬢,
Nhất bán dĩ thành sương.                                                           ㇐半已成霜。
Thiên công kiến Ngọc Nữ,                                                         天公見玉女,
Đại tiếu ức thiên trường.                                                            大笑億千場。
Ngô dục lãm lục long,                                                                吾欲攬六龍,
Hồi xa quải phù tang.                                                                 迴車挂扶桑。
Bắc Đẩu chước mỹ tửu,                                                             北斗酌美酒,
Khuyến long các nhất thương.                                                   勸龍各㇐觴。
Phú quý phi sở nguyện,                                                             富貴非所願,
Dữ nhân trú nhan quang.                                                           與人駐顏光。

Dịch nghĩa:

Ban ngày tại sao ngắn ngủi?, - Trăm năm cái khổ cứ đổi thay và tràn khắp! – Bầu trời to lớn mênh mông, - Muôn kiếp ,cái tột cùng rất sâu xa lâu dài. (c.1-4)

Cô tiên Ma Cô buông rủ hai mái tóc. – Một nửa đã thành hạt sương! – Ông trời gặp nàng Ngọc Nữ, - Cười lớn (vang) muôn vạn cõi trời.(c.5-8)

Ta muốn ngắm sáu con rồng, - Quay xe lại treo lên cây phù tang (là nơi mặt trời mọc). – (Ngắm) chòm sao Bắc Đẩu rót rượu quý, - Mời các con rồng mỗi con một chén rượu! (c.9-12)

Việc giàu sang không phải là ước nguyện (của ta), - Cùng ở lại với con người với vẻ mặt sáng rỡ! (c.13-14)

Tạm chuyển lục bát:

KHÚC CA NGẮN NGỦI

Ban ngày ngắn ngủi vậy sao?!
Trăm năm dời đổi,khổ đau đầy tràn!
Bầu trời xanh rộng thênh thang,
Dài sâu muôn kiếp mênh mang tột cùng!
Ma Cô hai mái tóc buông,
Đã thành một nửa pha sương kia rồi!
Gặp tiên Ngọc Nữ - ông trời,
Cười to mười vạn ngàn nơi khắp vùng!
Ta mong thâu sáu con rồng,
Quay xe treo ở cây thần Phù tang!
Rượu ngon Bắc đẩu rót tràn,
Rót ra từng chén mời dâng các rồng!
Giàu sang chẳng phải ước mong,
Sáng soi vẻ mặt ở cùng người thôi!

Chú thích:

- hà đoản đoản 何短短: tại sao ngắn ngủi như thế?
- khổ dị (dịch) mãn 苦易滿: sự khổ đau luôn biến dời, thay đổi và tràn đầy nơi nơi... Dị: dễ dàng. Một âm khác là dịch chỉ sự đổi thay ,dời đổi theo sự dịch chuyển của vũ trụ sâu xa. Dịch cũng là Kinh Dịch là một trong những tác phẩm về vũ trụ quan và nhân sinh quan quan trọng của Trung Hoa nói chung và đạo Lão nói riêng . Lý Bạch vẫn thường có những suy niệm sâu sắc về vũ trụ theo tinh thần của Lão giáo cũng như cách nhìn về sự khổ hay sự vô thường, biến đổi... v.v... vừa mang âm hưởng đạo Phật, vừa mang tinh thần Dịch Kinh 易經 cũng như Đạo Đức Kinh 道德經 của Lão Tử (câu 1&2).
- thương khung 蒼穹: bầu trời hay vòm trời xanh thẳm và rộng lớn. Cũng như khi gọi khung thiên để chỉ bầu trời cao lớn...
- hạo mang mang 浩茫茫: rộng lớn và bát ngát mênh mông...
- thái cực trường 太極長: vùng vũ trụ ở nơi cao xa nhất (thái), nơi tột cùng hay cùng cực(cực) và sâu thẳm ,bao la,mênh mông , dài rộng ... (trường)
- Ma Cô 麻姑: truyền thuyết thần thoại của Trung Hoa cổ đại có nữ thần được chép trong “Thần Tiên Truyện” của Cát Hồng là một trong “Hạ bát động thần tiên 下八洞神仙”được tôn xưng là “nữ thần trường thọ”. Dân gian thường gọi là “Ma Cô tiên nữ” thường mỗi lần có hội yến trên thiên đình được chọn làm tiên nữ dâng đào trường thọ để mừng thọ Tây Vương Mẫu .Hình ảnh Ma Cô tiên nữ được nhiều họa sĩ vẽ trong nhiều tác phầm gốm sứ hay các bức họa ở đền miếu gọi là “Ma cô hiến thọ 麻姑献壽”
- thiên công 天公: công: cách gọi những người đáng tôn kính hàng trưởng thượng. Ở đây là cách gọi của dân gian là ông trời.
- Ngọc Nữ 玉女: tiên nữ trong đạo giáo ghi chép là con gái của Tây Vương Mẫu ở cung Dao Trì trên thiên giới. Dân gian vẫn dùng từ Ngọc Nữ để chỉ người con gái đẹp.
- ức, thiên 億千: ức: mười vạn; thiên: ngàn.
- trường (tràng) 場: nơi rộng rãi để tụ tập, sân phẳng rộng...
- lãm 攬: nắm giữ, thâu tóm, giữ hết, bế, bồng, ôm, thoát ra, xem, nhìn...
- phù tang 扶桑: cây phù tang, một loại thần mộc ở Đông Hải của Trung Hoa, là nơi mặt trời mọc. Người Nhật Bản (gốc gác mặt trời) vẫn tự hào là con cái của thần Thái Dương tức mặt trời ,cũng được gọi là nước Phù Tang.
- Bắc Đẩu 北斗: tức chòm sao ở phương bắc gồm 7 ngôi sao được dân gian Trung Hoa cho rằng là nơi ở của các chư thần còn gọi là Đại Hùng tinh...
- chước mỹ tửu 酌美酒: rót rượu ngon và quý.
- khuyến 勸: mời dâng, khích lệ, khuyên bảo...
- các nhất thương 各㇐觴: đều từng chén rượu, mỗi người đều có một chén rượu...
- sở nguyện 所願: mong ước của chính mình...
- trú 駐: nghỉ lại, ở, lưu lại....
- nhan quang 顏光: vẻ mặt sáng rực rỡ, dáng người sáng láng....

(Lần đến: THƠ LÝ BẠCH – Bài 107 và 108)

Dương Anh Sơn


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét