Thứ Tư, 2 tháng 10, 2024

Ức Trai Thi Tập Của Nguyễn Trãi - Bài 50, 51 Và 52

 


ỨC TRAI THI TẬP CỦA NGUYỄN TRÃI - BÀI 50, 51 VÀ 52
Thầy Dương Anh Sơn

ỨC TRAI THI TẬP CỦA NGUYỄN TRÃI - THỜI KỲ SAU KHI BỊ TÙ OAN MUỐN LUI VỀ Ở ẨN (Khoảng 1429 – 1437)

Bài 50

ĐỀ SƠN ĐIỂU HÔ NHÂN ĐỒ                                                  題 山 鳥 呼 人 圖

Thâm sơn tịch mịch điểu hô nhân,                                             深山寂寞鳥呼人,
Họa lý khan lai diệc bức chân.                                                   畫裏看來亦逼真.
Nhàn quải ngọ song triều thối nhật,                                           閑掛午窗朝退日,
Mộng hồi nghi thị cố viên xuân.                                                夢回疑是故園春.

Dịch nghĩa:

Chim gọi người nơi núi sâu vắng lặng, - Trong bức tranh vẽ trông đến cũng gần giống như thật. - Buổi trưa những ngày lui chầu được nhàn rỗi đem treo bên cửa sổ, - Trong giấc mơ trở về nhà cứ ngỡ là vườn xuân xưa cũ.

Tạm chuyển lục bát:

ĐỀ TRANH VẼ “ CHIM NÚI GỌI NGƯỜI”

Chim kêu núi vắng gọi người!
Xem tranh cũng giống thật thôi rất gần.
Lui chầu, treo cửa an nhàn,
Ngỡ về vườn cũ mơ màng mộng xuân!

Chú thích:
- khan lai diệc bức chân 看來亦逼真: nhìn lại, nhìn đến...
- diệc bức chân 亦逼真: cũng gần như thật. (diệc: cũng, chỉ là, đã rồi, chẳng qua. v.v...; bức: gần, sát, kề cận, bắt buộc, cưỡng bức... v.v...)
- quải ngọ song 掛午窗: treo lên cửa sổ vào lúc giữa trưa.
- triều thối nhật 朝退日: lui sau buổi vào triều chầu.
- nghi thị 疑是: tưởng là, ngỡ là, tưởng đây là...
- cố viên 故園: vườn cũ.

Bài 51

VÃN LẬP                                                                                   晚 立

Trường thiên mạc mạc thủy du du,                                            長天漠漠水悠悠,
Hoàng lạc sơn hà thuộc mộ thu.                                                黃落山河屬暮秋.
Tiễn sát hoa biên song bạch điểu,                                              羨殺花邊雙白鳥,
Nhân gian lụy bất đáo thương châu.                                          人間累不到凔洲.

Dịch nghĩa:

Trời bao la thăm thẳm không có tiếng động, nước mênh mông, – (Lá) màu vàng rơi rụng khắp núi sông khi đã vào cuối mùa thu . – Thèm (chết) đi được như đôi chim trắng bên hoa, – Cõi người với những phiền lụy không đến được bãi (ở ẩn) sông này.

Tạm chuyển lục bát:

ĐỨNG NGẮM CẢNH CHIỀU

Lặng yên trời nước mênh mang,
Rụng vàng sông núi, muộn màng cuối thu.
Thèm đôi chim trắng bên hoa,
Cõi người phiền lụy chẳng qua bãi này!

Chú thích:

- trường thiên 長天: trời bao la, rộng thăm thẳm, mênh mang.
- mạc mạc 漠漠: không có tiếng động, im lặng hoàn toàn, bày la liệt, mênh mông, lãnh đạm, um tùm, hương ngào ngạt... v.v...
- du du 悠悠: xa xôi, mênh mông, bao la...
- thuộc 屬: thuộc về, vừa mới...
- tiễn sát 羨殺: rất thèm (thèm chết đi được).
- lụy 累: trói buộc, phiền lụy, mệt nhọc.
- thương châu凔洲: bãi sông – cách nói để chỉ nơi ở của những người ẩn dật.

Bài 52

THU NHẬT NGẪU THÀNH                                                    秋 日 偶成

Tiêu tiêu trụy diệp hưởng đình cao,                                           蕭蕭墜葉響庭皋,
Bệnh cốt tài tô khí chuyển hào.                                                 病骨纔蘇氣轉豪.
Thiên địa tư văn tùng cổ trọng,                                                  天地斯文從古重,
Hồ sơn thanh hứng nhập thu cao.                                              湖山清興入秋高.
Kính trung bạch phát giai nhân lão,                                           鏡中白髮偕人老,
Thân ngoại phù danh mạn nhĩ lao.                                            身外浮名謾爾勞.
Miến tưởng cố viên tam kính cúc,                                             緬想故園三徑菊,
Mộng hồn dạ dạ thượng quy đao.                                              夢魂夜夜上歸舠.

Dịch nghĩa:

Vi vu tiếng vang của lá rụng ven sân, - Vừa mới bệnh nặng qua khỏi, (vẻ người )hơi thở lại trở thành mạnh mẽ. - Từ xa xưa, đất trời rất trọng nền tư văn, – Núi hồ trong sạch vào mùa thu khiến sự hứng khởi càng cao.(c.1-4) – Soi gương tóc đã bạc cũng là người già lão đây, – Bên ngoài thân là danh suông, cái xấu xa của nó (làm cho ta) nhọc nhằn. - Nhớ mãi ba hàng hoa cúc nơi chốn vườn xưa, - Hồn mộng đêm đêm lên chiếc thuyền nhỏ quay trở về.(c.5-8)

Tạm chuyển lục bát:

NGÀY THU NGẪU HỨNG LÀM THƠ

Vi vu lá rụng ven sân,
Bệnh vừa qua khỏi, khí dần mạnh hăng.
Đất trời xưa trọng nền văn,
Vào thu, hồ núi hứng tràn thêm cao!
Soi gương tóc bạc, già sao!
Ngoài thân danh hão gây bao mệt nhoài!
Vườn xưa luống cúc nhớ hoài,
Về quê thuyền mộng miệt mài hằng đêm.

Chú thích:

- tiêu tiêu 蕭蕭: gió mạnh vi vu, gió thổi vù vù...
- trụy 墜: rơi, rụng, ngã, đổ, chìm xuống, mất mát...
- hưởng 響: tiếng vang.
- cao 皋: đất ven hồ, khúc quanh nước chảy...
- bệnh cốt: tình trạng của căn bệnh, tính cách của bệnh trạng...
- tài 纔: vừa rồi, nơi đây...
- tô 蘇: cây tía tô, chết đi sống lại.
- hào 豪: hăng hái, mạnh mẽ, khỏe khoắn (hào ẩm: uống rượu khỏe), giỏi hơn người, sáng suốt.
- tư văn 斯文: nền văn nhã, lễ nhạc, pháp độ từ xưa truyền lại; nước có “tư văn” nghĩa là có riêng (tư: tách ra, riêng ra...) nền văn chương, âm nhạc chân chính, sự giáo dục, trọng lễ nghĩa, hành xử theo nề nếp, luật lệ, trọng kẻ hiền tài v.v... theo tinh thần của Nho giáo, của Khổng Mạnh.
- giai nhân lão 偕人老: đều là người già lão.
- miến 緬: xa xôi, miệt mài, nghĩ triền miên, nghĩ đến hoài, xa thăm thẳm...
- mạn 謾: sự xấu xa, lừa dối, coi thường, xấc xược, phỉ báng, trễ nải...
- nhĩ 爾: nó, cái đó, mày, ngươi, đó... v.v...
- tam kính cúc 三徑菊: ba lối đi với những hàng cúc. Đào Tiềm 陶潛 (365-427), tựlà Uyên Minh 淵明 người ở quê đất Tầm Dương đời Đông Tấn bên Trung Hoa được xem như một trong những hiền sĩ mở đường cho dòng thơ của những người mạnh dạn từ quan về ở ẩn vui thú điền viên để tránh xa những phiền lụy ở chốn quan trường. Trong bài thơ nổi danh của ông là “Quy khứ lai từ 歸去來辭” đã có câu:
“Tam kính lưu hoang,tùng cúc do tồn 三徑就荒,松菊猶存” nghĩa là ba lối đi cũ bỏ hoang nhưng vẫn còn những luống cúc.
- đao 舠: thuyền nhỏ, dáng hình cây đao cong.

(Lần đến: Ư.T.T.T – bài 53, 54 và 55)

Dương Anh Sơn


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét