Hình minh họa
NGƯỜI LAU KÍNH XE
Lê Đức Luận
Nếu ở xa vùng Đông Bắc Hoa Kỳ, khi có dịp lái xe qua thành phố New York hay vào thủ đô Washington DC lúc tuyết đang rơi lất phất… bạn chớ ngạc nhiên khi dừng xe ở ngã tư đường lúc đèn đỏ thì trông thấy một người - thường là một thanh niên da đen - tay xách bình xịt nước, tay cầm chiếc cần lau kính xe chạy ra cào lia, cào lịa trên kính xe của bạn mà không cần hỏi han gì cả.
Khi mới định cư ở Tiểu bang Maryland, tôi được anh bạn đưa đi New York chơi cho biết thành phố lớn nhất ở Hoa Kỳ. Nếu không vững tay lái, người ta sẽ choáng ngợp với luợng xe lưu thông như mắc cửi, nhưng anh bạn tôi đã đến New York nhiều lần, nên anh ta lái xe rất bình tĩnh và an toàn - khi xe dừng lại ở ngã tư đèn đỏ - một anh thanh niên da đen vội vã chạy ra lau kính xe như tôi đã mô tả ở trên. Anh bạn tôi ung dung, im lặng để cho người thanh niên ấy lau kính xe… Khi đèn vàng nổi lên, anh bạn tôi hạ cửa kính xe đưa cho anh thanh niên ba đô la.
Người thanh niên nói: “Thank you! Thank you!” rồi chạy vội vào lề đường. Xe cộ lại tiếp tục nối đuôi nhau…
Tôi có chút thắc mắc: “Anh lau kính xe cứ tự động lau - không cần hỏi. Anh chủ xe tự động móc ví đưa tiền - cũng chẳng cần hỏi phải trả bao nhiêu.” Tôi định hỏi: “Anh chàng làm công việc này là tự nguyện hay do chính quyền địa phương thuê anh ta cào tuyết trên kính xe cho du khách lái xe được an toàn?” Nhưng phố xá New York có nhiều cảnh lạ mắt để tôi chú ý hơn là nêu lên câu hỏi trong lúc này.
Anh bạn tôi lái xe qua nhiều con đường - đến đèn xanh , đèn đỏ không thấy có người lau kính xe đứng chờ. Nhưng khi đến đoạn đường dẫn vào bãi đậu xe để chuẩn bị xuống phà tham quan Tượng Nữ Thần Tự Do, thì lại thấy một ông già có dáng dấp của một người Phi châu nghèo khổ, xách xô nước và cây bàn chải lau kính chạy ra; anh bạn tôi khoát tay ra hiệu không cần. Ông già tiu nghỉu xách xô nước vào lề.
Bây giờ tôi mới nêu câu hỏi. Anh bạn tôi trả lời: “Ở Mỹ thích nhất là được tự do - tự do làm và tự do từ chối - tự do cho mình, nhưng không được xâm phạm tự do của người khác. Tôn trọng tự do và sòng phẳng là một cách cư xử và đạo đức của người Mỹ. Sống lâu trên đất Mỹ ông sẽ thấy nước Mỹ có nhiều cái hay nhưng không thiếu cái dở và lắm chuyện lạ lùng!”
Tuy chưa trả lời trực tiếp câu hỏi của tôi, nhưng anh bạn đã gieo vào đầu tôi ý niệm tự do và sòng phẳng ở Mỹ. Và từ đấy cho mãi sau này, ý niệm tự do và sòng phẳng đã giúp tôi suy nghĩ và hành động phù hợp để hội nhập vào cuộc sống mới một cách thoải mái và cảm thấy hạnh phúc trên quê hương thứ hai này.
Trên đường về, anh bạn mới trả lời cụ thể câu hỏi của tôi:
- Hồi nãy ông hỏi tôi về người lau kính xe là do tự nguyện hay do chính quyền trả lương cho anh ta làm công việc ấy? Đó là tự nguyện của anh ta đấy.
- Trời ơi! Tuyết lạnh mà đứng cả ngày như thế thật khổ thân, ở New York không có việc gì làm đỡ khổ hơn sao? Tôi hỏi.
Anh bạn tôi cười, trả lời:
- Ở Mỹ có những người thích “cái thú đau thương!” Đó là cái “tự do kiểu Mỹ!” Rồi ông sẽ thấy ở Mỹ cũng có ăn mày, có người vô gia cư, lang thang đây đó, ăn ngủ ở đầu đường xó chợ…
- Mỹ được tiếng là nước giàu mạnh nhất thế giới mà cũng có ăn mày, người vô gia cư, cơ cực đến thế sao? Lạ thật! Tôi tỏ vẻ nghi ngờ.
Anh bạn tôi lặp lại:
- Đó là “cái thú đau thương!” là “cái tự do kiểu Mỹ!”
“Người ta hay ví von rằng: Ở Mỹ chuyện chết đói và làm giàu khó ngang nhau.”
“Nói vậy không sai lắm đâu, vì ở Mỹ có cơ quan An sinh Xã hội và các tổ chức từ thiện quan tâm đến đời sống của những người cùng khổ - quận hạt nào cũng có nhà lưu trú cho những kẻ vô gia cư và có những chỗ cung cấp bữa ăn miễn phí. Những công dân Mỹ trên 65 tuổi và những người khuyết tật, không còn khả năng làm việc, đều được cấp tiền an sinh xã hội - đủ sống! Nhưng trong số đó có những người không thích ở trong nhà lưu trú hay viện dưỡng lão. Họ thích cuộc sống tự do - lang thang đây đó… Ngoài ra nghiện ngập khiến họ phải kiếm thêm tiền bằng cách ăn xin.”
Rồi anh nói tiếp:
- “Như ông đã thấy người thanh niên khi nãy, đứng dưới tuyết lạnh lau kính xe cho người qua lại. Trông thật đáng thương! Với sức vóc đó, anh ta có thể tìm một công việc khác tốt hơn. Nhưng có lẽ anh ta cảm thấy tự do và sòng phẳng trong công việc này - anh ta được an uỉ và ấm lòng mỗi khi một người xa lạ hạ kính xe đưa cho anh vài ba đồng tiền lẻ với nụ cười thân thiện, biểu lộ tình người chân thật. Tự do, tình người và sòng phẳng đã khiến anh gắn bó với công việc ‘lau kính xe’ cho đến tận bây giờ.”
“Mỗi lần lên New York, lái xe qua con đường này, tôi thấy anh ta vẫn đứng ở ngã tư đường, lau kính xe với thao tác lanh lẹ và chuyên nghiệp hơn. Trông anh ta có già đi đôi chút, nhưng ánh mắt vẫn lạc quan và thân thiện với khách lái xe qua đường như ngày nào.”
Thời gian trôi qua, chuyện “người lau kính xe” nhạt nhòa trong trí nhớ. Cho đến một ngày, tôi đến California thăm gia đình người em họ, hình ảnh “người lau kính xe” tái xuất hiện, nhưng lại là một ông già Việt Nam, khiến tôi có chút ngỡ ngàng…
Hôm ấy, đứa cháu lên phi trường Los Angeles đón tôi về nhà nó ở Orange County. Xe chạy êm trên đường. Nắng sớm Cali vàng ươm màu hổ phách, chiếu lên những lá cọ cao vút ven đường trông như dát vàng.
Ánh nắng ấy làm ấm áp làn da. Tôi cảm thấy khoan khoái. Chỉ ở Cali mới bắt gặp cái nắng đẹp và ấm áp như thế…
Khi đến ngã tư đường Bolsa và Magnolia- đèn đỏ, xe ngừng! Một ông già Việt Nam, trạc tuổi trên bảy mươi - đầu đội bê rê (beret) đỏ, mặc quân phục hoa dù, đeo chiếc cà vạt to bản màu vàng có ba sọc đỏ (biểu tượng lá cờ VNCH), vai mang bình xịt nước to như bình xịt thuốc trừ sâu, tay cầm cần lau kính., từ trong lề đường bước ra, đến trước xe của con cháu. Con cháu vội hạ kính xe, nói: “Chào bác Năm, bác khỏe không?” Vừa hỏi nó vừa móc ví trao cho ông già tờ bạc mười đô, rồi nói tiếp: “Xin gởi bác Năm chút tiền. Hôm nay bác khỏi phải lau kính xe cho cháu.”
Ông già cầm tiền bỏ vào chiếc túi nhỏ đeo bên hông - im lặng, thản nhiên xịt nước lên kính xe, rồi vung cần lau… như không nghe thấy lời nói của chủ xe.
Khi đèn vàng hiện lên, ông già quay gót, bước chầm chậm vào lề đường - không một lời cảm ơn, cũng không có cái vẫy tay chào!
Khi đoàn xe chuyển bánh, ông già lặng lẽ đứng trên lề đường nhìn theo với ánh mắt hững hờ…
Thái độ và cách ăn mặc của ông già là một hiện tượng lạ. Tôi ngỡ ngàng quay lại nhìn ông.
Đứa cháu hiểu ý, giải thích:
- “Ông già lau kính xe, truớc đây là một ‘đại gia’ nổi tiếng đó bác! Ở đây ai cũng biết ổng. Cách nay vài năm ổng bị bệnh tâm thần nặng - ổng mặc áo nhà sư, đi lang thang đây đó - lúc tụng kinh niệm Phật, lúc ca hát. Ông ca rất hay! Mỗi lần ổng xuất hiện, nhiều người vây quanh nghe ổng hát những bài tình ca rất mùi…”
“ Bây giờ, ổng tỉnh táo hơn - bỏ áo nhà sư, mặc đồ lính, đứng đây lau kính xe… Lúc đầu, khách lái xe qua đường nhìn ông với ánh mắt thờ ơ, có người khoát tay bảo: không cần! Nhưng cũng có người để ông lau kính rồi đưa ông vài ba đồng tiền lẻ - số tiền gom được, ông gởi đến ‘Hội HO Cứu Trợ Thương Phế Binh VNCH’ lên đến bạc ngàn và ông thường xuyên đóng góp cho các hội từ thiện số tiền không nhỏ. Từ đấy, tên tuổi ông được nhiều người biết đến.”
“Hiện nay, những người trong vùng đều biết: Ông lau xe không phải kiếm tiền nuôi thân mà để giúp cho thương phế binh VNCH và những kẻ khốn cùng, nên ai cũng vui vẻ ủng hộ việc làm của ông. Và người ta thêu dệt cuộc đời của ông lỳ kỳ như trong tiểu thuyết…”
Ở chơi nhà người em họ hơn tuần lễ, những lúc anh em ngồi uống trà, tán gẫu… tôi tò mò muốn biết chuyện đời của “ông già lau kính xe” như thế nào mà con cháu nói: “ly kỳ như trong tiểu thuyết”. Và được chú em cho biết:
Ông Khánh nổi tiếng ở vùng này với ba lý do: Thứ nhất là làm giàu rất nhanh; thứ hai có bà vợ đẹp tuyệt trần - nết na hiền thục; thứ ba là đã bỏ nhà cao cửa rộng, sống lang thang đây đó như người vô gia cư.”
Những lúc trà dư tửu hậu, hết cãi nhau về chính trị, dân vùng này thường đem chuyện đời của ông Khánh ra bàn tán như ‘mồi nhấm’ đưa hơi nói về ông Khánh: Ông đến Hoa Kỳ, định cư ở Quận Cam này theo diện HO với hai bàn tay trắng như những anh em HO khác. Nhưng chỉ ba, bốn năm sau trở thành triệu phú - không phải do trúng số độc đắc, mà từ sức cần lao và cái đầu thông minh của ông ta.
Bước đầu ông đi sửa chữa nhà cửa cho dân cư trong vùng - cái nghề học được khi làm trong ‘Đội mộc’ở trại cải tạo Tân Lập -Vĩnh Phú. Ông làm rất khéo tay, nên được nhiều người gọi - kiếm được khá tiền. Sau đó, vay thêm tiền ngân hàng, ông mua những căn nhà cũ rồi sửa lại - bán kiếm lời! Mua căn nhà cũ dưới vài trăm ngàn, khi sửa sang xong, bán ra trên hai trăm năm chục ngàn. Cứ thế tiến lên! Ông có đến bốn, năm căn nhà đã tân trang - chờ bán! May mắn là lúc đó nhà ở Cali lên giá chóng mặt… Vậy là ông trở thành triệu phú!
Nhưng thói đời ‘phú quý sinh lễ nghĩa’ và sinh tật ‘ăn chơi’. Một lần theo đám bạn bè lên Las Vegas chơi, ông bị người phụ nữ chia bài mồi chài, hay bỏ ‘bùa mê thuốc lú’ thế nào khiến ông si mê… Rồi hằng tuần ông lên với người tình ở Las Vegas - bỏ bê vợ con và công việc làm ăn.
Người vợ mẫu mực, đảm đang khám phá sự phản bội của chồng, bà uất đến nỗi phát cuồng - có mấy lần ngất xỉu phải đưa đi nhà thương cấp cứu - từ đó bà tịnh khẩu!
Tình cảnh của vợ khiến ông thức tỉnh. Ông quay về với gia đình - sám hối tội lỗi với vợ con. Ông hết lời năn nỉ vợ con xin tha thứ… Nhưng bà tịnh khẩu và mỗi khi thấy mặt ông, bà lại lên cơn ngất xỉu. Mấy đứa con bây giờ cũng lạnh nhạt với ông và nói những câu phũ phàng: “Ba đi đi, đừng về làm khổ mẹ!”
Ông nghe như đất trời sụp đổ! Ngày nào những đứa con gần gũi, thân mật, yêu thương ông… Chúng nó là nguồn an ủi của đời ông. Bây giờ chúng nó nhìn ông với ánh mắt lạnh lùng và nói những lời xua đuổi, bất kính...
Ông thấy đau nhói trong tim! Ông bỏ nhà ra đi không mang theo bất cứ thứ gì.
Rồi một ngày, ông xuống tóc vào chùa xin tu - nương nhờ cửa Phật! Ông hy vọng chốn thiền môn - sớm chiều tụng kinh, niệm Phật và sám hối sẽ làm vơi bớt nỗi khổ đau.
Ngày xưa, những người có sự giác ngộ tâm linh, nghiệp duyên, hay do ảnh hưởng từ gia đình hoặc môi trường chung quanh thì vào chùa tu từ nhỏ. Bây giờ người ta thấy: thất tình đi tu, thất chí đi tu, hận đời đi tu; thậm chí có người đi tu như tìm một nghề thanh nhàn - đó là cái “nghề tu”!
Ông Khánh đi tu không thuộc vào các dạng nêu trên. Ông vào chùa xin tu với hy vọng chốn thiền môn sẽ làm vơi nỗi đau khổ đang giày xéo tâm hồn ông.
Nhưng vào chùa tu một thời gian - không biết cảnh chùa và sư, sãi tu hành thế nào khiến ông phát khùng…
Ông bỏ chùa, đi hát dạo!
Khi biết ông vào chùa đi tu, rồi bỏ chùa, lang thang đi hát dạo… bà vợ xúc động!
Bao kỷ niệm của cuộc tình thơ mộng thuở ban đầu và những ngày hạnh phúc bên nhau trong đời sống vợ chồng - lúc hiển vinh cũng như khi nguy khốn, hai tâm hồn đã gắn bó cùng chia xẻ cay đắng ngọt bùi trong mấy mươi năm qua, trổi dậy trong lòng bà…
Bà rưng rưng gọi mấy đứa con vào, bảo: “Các con đi tìm ba, đưa ba về đây, mẹ sẽ tha thứ cho ba tất cả, các con cũng thế… Để ba các con lang thang như thế - tội nghiệp lắm!”
Nhưng lúc này, ông Khánh mang bịnh trầm cảm nặng, ông nhập bọn với những người homeless, trốn tránh những người quen thân. Bao nhiêu lần, các con tìm gặp, năn nỉ ông về nhà, nhưng ông im lặng. Bà viết nhiều lá thư tỏ hết nỗi lòng thuơng nhớ và sẽ bỏ qua hết mọi chuyện… rồi bảo các con đem trao cho ông, nhưng không làm lòng ông rung động.
Cho đến một ngày, người ta thấy ông bỏ áo nhà sư, mặc quân phục nhảy dù, đứng ở ngã tư đường, lau kính xe.
Vốn là bạn cùng khóa ở trường Võ bị Đà Lạt với ông Khánh, nên chú em kể cho nghe thêm cuộc đời thăng trần của ông trước và sau năm 1975:
Chuyện tình duyên đến với ông đơn giản nhưng thật đẹp. Ông gặp Thoa trong buổi trao tặng vòng hoa cho các chiến sĩ xuất sắc của Sư đoàn Dù ở vườn Tao Đàn, Sài Gòn.
Hôm ấy, nắng xuân ấm áp, người tham dự rất đông - trên khán đài gồm các quan chức, dưới sân dân chúng sắp hàng ngay ngắn cùng các nữ sinh Trưng Vương, Gia Long tay cầm vòng hoa, xếp hàng dọc trước khán đài. Trong các nữ sinh có mặt hôm ấy, Thoa là người xinh đẹp duyên dáng nhất.
Khi ban quân nhạc trổi lên một bản hùng ca - các chiến sĩ Dù xuất sắc bước đều ra vị trí hành lễ.
Như duyên số an bài - chàng Trung úy trẻ được xếp đứng trước mặt người đẹp tên Thoa, chờ nàng khoác vòng hoa lên cổ. Khi ấy, bốn mắt nhìn nhau như có luồng điện giao thoa giữa hai tâm hồn. Nàng nhìn bảng tên trên túi áo, lí nhí: “Hân hạnh được choàng vòng hoa cho anh Khánh…” Nhìn bảng tên đeo bên ngực trái của Thoa, anh Trung úy trẻ, đẹp trai đáp lời: “Cảm ơn Thoa, ước gì được gặp lại…” Nàng gật đầu!
Thế là có những cuộc hẹn hò, thề ước. Và chỉ một năm sau họ làm đám cưới theo kiểu nhà binh.
Có lẽ nhờ cái tướng “vượng phu ích tử” của vợ mà đường binh nghiệp của Khánh lên như diều: “Ra trường Võ Bị, chọn binh chủng Nhảy Dù, chức vụ đầu tiên là Trung đội trưởng; khi cưới Thoa, Khánh đang làm Đại đội trưởng, ba năm sau lên chức Tiểu đoàn trưởng - hai lần gắn lon thăng cấp đặc cách tại mặt trận và từ Trung úy lên Thiếu tá chỉ trong vòng bốn năm - trong khi các bạn cùng khóa còn đeo lon Trung úy hay mới lên Đại úy.
Đến tháng 4-1975, đời ông rơi tận đáy! Bị giam cầm, đày đọa, nhưng nhờ người vợ tháo vát, đảm đang tần tảo nuôi con, tiếp tế cho chồng ròng rã mười hai năm. Ngày được thả về với gia đình - vợ con nguyên vẹn và đã dành cho ông tất cả yêu thương cho đến khi thoát khỏi chế độ tàn bạo ở Việt Nam, làm lại cuộc đời trên đất khách.
Nghe qua câu chuyện, tôi muốn gặp mặt con người đặc biệt này. Và một buổi chiều cuối tuần, chú em dẫn tôi đi qua các hẻm nhỏ, nơi có những người homeless thường ngồi lại với nhau. Vừa thoáng thấy chúng tôi, ông già cúi xuống che mặt, nhưng chú em tinh mắt chạy đến ôm vai ông, nói: “Khánh, cậu làm sao ra nông nỗi này?” Ông già im lặng! Chú em nói đủ thứ chuyện - rất thiết tha! Nhưng ông già không tỏ vẻ gì xúc động - vẫn im lặng!
Ngồi với nhau gần nửa giờ, ông già không nói lời nào. Trước khi chia tay, chú em bảo: “Khánh à, cậu nên về với gia đình - Thoa và các cháu nhớ thương cậu, mong đợi cậu về.” Bấy giờ ông già rưng rưng, nói: “Ở đây, ngày ngày tớ lau kính xe, coi như cạo bớt lớp bụi tội lỗi đã bám lên cuộc đời tớ… khi nào cạo sạch, tớ sẽ về.”
Chúng tôi chào từ giã ông già. Chú em thở dài, nói: “Cuộc đời thật vô thường - không sao biết được ngày mai như thế nào.”
Hai năm sau, tôi trở lại Cali dự đám cưới đứa cháu gái. Xong việc tiệc tùng, còn lại mấy ngày ở chơi dạo phố Bolsa và thăm viếng bạn bè.
Chú em rủ tôi đến thăm ông Khánh.
Lúc này ông vào viện dưỡng lão ở chung với vợ. Khu dưỡng lão này vào hạng sang trọng, tiện nghi và được chăm sóc chu đáo vào bậc nhất ở Cali. Nhà dưỡng lão mà trông như khu nghỉ dưỡng ở Hawaii - một khuôn viên xanh tươi với khu vườn cắt tỉa gọn gàng, có đài phun nước và những lối đi trải sỏi trắng, hai bên có các bồn hoa rực rỡ.
Chúng tôi vào phòng tiếp khách ghi tên thăm viếng thân nhân. Ngồi chờ khoảng mười phút, một nhân viên ân cần, lịch sự đến hướng dẫn chúng tôi đến phòng của hai ông bà. Nhân viên gõ cửa và đưa chúng tôi vào bên trong. Ôi! Một căn phòng tiện nghi, sang trọng như khách sạn năm sao.
Khác hẳn với lần gặp gỡ trước đây hai năm, ông Khánh niềm nở bắt tay chúng tôi với lời chào hỏi vồn vã thân tình, ông nói:
- “Tôi và Thoa vào viện dưỡng lão này hơn một năm nay. Khi được mấy đứa con cho biết Thoa bị bịnh alzheimer (lú lẫn) - có lần bỏ nhà đi lang thang không biết đường về. Chúng nó tìm tôi - bảo tôi về chăm sóc cho mẹ vì chúng nó bận công việc không thể ở nhà thường xuyên trông mẹ.
Thế là tôi về!”
“Thương lắm mấy ông ơi! Người bị bịnh alzheimer nhớ những chuyện xa xưa khi ký ức loé lên, nhưng rồi vụt tắt nhanh chóng. Thoa có lúc nhận ra tôi và các con, nhưng thường thì không biết là ai. Ăn uống, tắm gội cần được hỗ trợ... Tôi chăm sóc Thoa với tất cả tấm lòng yêu thương. Thoa còn có người bạn thân thường đến phụ tôi chăm sóc cho Thoa như đưa đi tiệm uốn tóc, làm móng tay… Nhưng ở đây có những nhân viên điều dưỡng chuyên nghiệp chăm sóc người già tốt hơn, nên chúng tôi vào nhà dưỡng lão này. Tôi đã làm di chúc cho mấy đưa con:
Sau khi chúng tôi mãn phần, tài sản còn lại, hai đứa con chia nhau đồng đều.”
“Từ ngày tôi và Thoa vào nhà dưỡng lão này được chăm sóc chu đáo - từ ăn uống, thuốc men cho đến việc vui chơi, giải trí đều tốt - tôi rất hài lòng! Mỗi tháng trả trên mười ngàn đô.”
Ông Khánh vừa ngưng, chú em nêu câu hỏi:
- Ngoài cái bệnh alzheimer, sức khỏe của chị như thế nào?
- Sức khỏe bình thưởng, bác sĩ cho biết: không bị “ba cao, một thấp”* như tôi. Nhưng đi đứng khó khăn, phải ngồi xe lăn. Ông Khánh trả lời.
Rồi ông nói tiếp:
- Ở đây người ta rất chu đáo - khi có người thăm viếng, họ báo cho mình biết trước, rồi nhân viên điều dưỡng đến giúp mình dọn dẹp những thứ linh tinh, thay quần áo, chải tóc…v.v… Khi gọn gàng, tươm tất, họ mới đưa khách vào phòng. Khi nãy các ông có chờ lâu không?
Bây giờ cô điều dưỡng còn đang trang điểm cho Thoa. ‘Điệu lắm!’
Vừa lúc ấy, cô điều dưỡng đẩy chiếc xe lăn ra. Bà Khánh nhìn chúng tôi, khẽ gật đầu chào.
Tôi ngạc nhiên, thấy bà không có vẻ gì là người mắc bệnh mất tri nhớ.
Nhưng khi chúng tôi chào lại và nói: “Chào chị! Chị có khỏe không?” thì mắt bà lơ đãng. Im lặng!
Ông Khánh cúi xuống, ôm vai, nói nhỏ vào tai bà: “Anh Đãm đến thăm chúng mình, em còn nhớ Đãm không?” - “Đãm nào?” - “Đãm cùng khóa với anh đó.”
Lúc này, mắt bà như sáng lên, linh hoạt nhìn chú em: “À, anh Đãm!” Khoảnh khắc, như quá khứ loé lên, bà hỏi: “Khánh đâu, sao không đi cùng Đãm?” Bà cúi xuống, giọt nước mắt lăn trên má. Bà khóc!
Ông Khánh nắm lấy tay bà lay nhẹ… Anh đây!
Bà cúi xuống, như không nghe thấy gì, lẩm bẩm: “Người ta còn giam Khánh! Ngày mai tới lượt thăm nuôi rồi!”
Bây giờ ánh mắt của bà lạc lõng, vô hồn như không còn nhận biết những gì đang xảy ra.
Ông Khánh rưng rưng, nói: Bệnh Alzheimer như thế đấy - chợt nhớ, chợt quên - thường nhắc đến chuyện quá khứ xa xưa, nhưng không nhớ những sự việc mới xảy ra.
Nhân viên điều dưỡng đem đến ba ly cà phê, một ly sữa tươi và chiếc bánh bông lan mời chúng tôi.
Ông Khánh lấy lát bánh đút cho bà, rồi mời chúng tôi. Bà nhai hờ hững, mắt nhìn ra ngoài như đang thả hồn vào chốn hư không.
Ông Khánh với cây đàn guitar, kéo ghế sát vào chiếc xe lăn với vợ, ông vừa đàn vừa hát:
“Anh còn nợ em - Công viên ghế đá - Công viên ghế đá - Lá đổ chiều êm…
“Và còn nợ em - Dòng sông bến cũ - Dòng sông bến cũ - Con sông êm đềm…
“Anh còn nợ em - Nụ hôn vội vàng - Nụ hôn vội vàng - Nắng chói đồn xa…**
“Anh còn nợ em - Chuyến tàu xuyên Việt - Đưa người vợ trẻ - Đến tận miền xa….**
“Anh còn nợ em - Ấm Thượng ga buồn - Bến Ngọc mờ sương - Chiều mưa biên giới…**
“Anh còn nợ em - Con tim bối rối - con tim bối rối - Trong chốn lao tù…**
“Anh còn nợ em - Chuyện tình tội lỗi - Chuyện tình tội lỗi - Anh còn em…**
“Anh còn nợ em! Anh còn nợ em! Anh còn nợ em! Anh còn nợ em!
Tiếng hát miên man hoài niệm một thuở xa xưa, làm xao xuyến tâm hồn người viễn xứ: thổn thức, ngậm ngùi!
Tôi có cảm giác mơ hồ về sự mất mát của cuộc đời dâu bể với sự vô thường trong kiếp nhân sinh…
LÊ ĐỨC LUẬN
(Tháng 3 - 2025)
*Ba cao là “cao mỡ, cao đường, cao huyết áp.” Một thấp là “thấp khớp”
** Mượn lời bài hát “Anh Còn Nợ Em” chế thêm lời để nói lên nỗi lòng thương vợ - từ Nam ra Bắc bằng tàu hỏa, đến ga Ấm Thượng (Phú Thọ) rồi xuống đò dọc vào Bến Ngọc, rồi theo xe trâu vào trại tù Tân Lập - Vĩnh Phú để thăm nuôi chồng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét