Xin gửi tiếp bốn bài thơ nữa của Lý Bạch ."Trường Can Hành" là một trong những bài thơ nổi tiếng tiếng của Lý Bạch ,đề cập đến tình cảm nhớ mong của cô vợ rất trẻ có chồng đi buôn bán xa nhà .Bên cạnh đó là bài thơ "Bắc Phong Hành" mang đậm tính nhân bản ,lên án chiến tranh đã để lại biết bao buồn khổ cho những người vợ có chồng đi chinh chiến không trở về . "Hành" là một thể thơ Cổ Phong có từ xưa bên Trung Hoa dùng như một bài ca để nói về một vần đề hiện thực nào đó."
Bài 39/1
TRƯỜNG CAN HÀNH (Kỳ Nhất ) 長干行 (其一)
Thiếp phát sơ phú ngạch 妾髮初覆額
Chiết hoa môn tiền kịch; 折花門前劇;
Lang kỵ trúc mã lai, 郎騎竹馬來,
Nhiễu sàng lộng thanh mai. 繞床弄青梅。
Đồng cư Trường An lý, 同居長千里,
Lưỡng tiểu vô hiềm sai. 兩小無嫌猜。
Thập tứ vi quân phụ, 十四為君婦,
Tu nhan vị thường khai; 羞顏未嘗開;
Đê đầu hướng ám bích, 低頭向暗壁,
Thiên hoán bất nhất hồi. 千喚不一回。
Thập ngũ thủy triển mi, 十五始展眉,
Nguyện đồng trần dữ hôi, 願同塵與灰,
Thường tồn bão trụ tín, 常存抱柱信,
Khởi thướng Vọng Phu đài? 豈上望夫臺.?
Thập lục quân viễn hành, 十六君遠行,
Cù Đường, Diễm Dự đôi; 瞿塘灩澦堆;
Ngũ nguyệt bất khả xúc, 五月不可觸,
Viên thanh thiên thượng ai. 猿聲天上哀。
Môn tiền cựu hành tích, 門前遲行跡,
Nhất nhất sinh lục đài. 一一生綠苔。
Đài thâm bất năng tảo, 苔深不能掃,
Lạc diệp thu phong tảo. 落葉秋風早。
Bát nguyệt hồ điệp lai, 八月蝴蝶來,
Song phi tây viên thảo; 雙飛西園草;
Cảm thử thương thiếp tâm, 感此傷妾心,
Tọa sầu hồng nhan lão. 坐愁紅顏老。
Tảo vãn há Tam Ba, 早晚下三巴,
Dự tương thư báo gia; 預將書報家;
Tương nghênh bất đạo viễn, 相迎不道遠,
Trực chí Trường Phong sa. 直至長風沙。
Lý Bạch 李白
Dịch nghĩa:
Bài hát Trường Can (bài một)
Thuở ban đầu ,lúc tóc thiếp mới úp nghiêng xuống trán, còn đùa vui bẻ hoa chơi trước cổng nhà. Chàng lấy nhành trúc làm ngựa cưỡi chạy vòng quanh giường đùa giỡn, trêu chọc bằng cành mơ còn xanh. (c. 1-4)
Cả hai cùng ở làng Trường Can; rồi vì cùng tuổi nhỏ nên không có gì ngại ngùng, ngờ vực nhau (khi chơi đùa). Mười bốn tuổi, (thiếp) về làm vợ chàng. Thẹn thùng, e ấp chưa từng hé mặt ra. (c. 5-8)
Thiếp cúi đầu hướng về bức tường mờ tối. Ngàn lời gọi đến (của chàng), (thiếp) vẫn không một lần quay lại! Lúc mười lăm tuổi, lông mày bắt đầu duỗi ra, nguyện sẽ cùng chàng đường trần bụi bặm, khổ cực có nhau. (c. 9-12)
Thiếp thường ôm cột (như Vĩ sinh) giữ vẹn niềm tin (để đợi chờ chàng)! Há sẽ (có lúc) lên đài Vọng Phu dõi mắt trông chồng?!. Khi thiếp mười sáu tuổi, chàng phải lên đường đi xa tận Cù Đường rồi đồi Diễm Dự. (c. 13-16)
Vào tháng năm không thể nào chạm đến vùng đó được. Tiếng vượn kêu ai oán vang trên trời! Trước cửa, dấu chân lúc (chàng) ra đi vẫn còn đó. Đó đây rêu xanh đã mọc khắp. (c. 17-20)
Rêu dày không sao quét được. Cơn gió mùa thu đến sớm đã làm rơi rụng lá. Tháng tám, những con bướm đã đến bay thành đôi nơi vườn cỏ. (c. 21-24)
Xúc cảm trước cảnh này nên lòng thiếp đau thương. Thiếp ngồi sầu buồn khi phận má hồng đã già đi! Sớm hay chiều khi (chàng) đã xuống đến vùng Tam Ba xin hãy sẵn thư báo tin về cho nhà. (c. 25-28)
Dẫu đường đi xa xôi, thiếp cũng sẽ thẳng đến bãi cát Trường Phong để cùng nghênh đón nhau! ( c. 29-30)
Tạm chuyển lục bát:
BÀI HÁT TRƯỜNG CAN (Bài một)
Tóc che trán thiếp vừa buông,
Bẻ hoa trước cửa bày tuồng vui chơi!
Ngựa tre chàng cưỡi đến nơi,
Cành mơ xanh giỡn cười trêu quanh sàng.
Xóm làng chung ở Trường Can,
Cả hai còn nhỏ chẳng màng ngại đâu!
Lấy chàng mười bốn tuổi đầu,
Chưa từng hé mặt vẻ sao thẹn thùng!
Cúi đầu vách tối kín bưng!
Ngàn lời chàng gọi cũng không đáp lời.
Mười lăm, mày duỗi ra rồi!
Nguyện cùng tro bụi trong đời có nhau.
Vững tin "ôm cột" dài lâu,
Vọng Phu trông ngóng dám đâu lên đài!
Chàng đi, mười sáu tuổi rày,
Cù Đường, Diễm Dự chốn đây gò đồi.
Tháng năm, không chạm đến nơi!
Tiếng con vượn hú vang trời xót xa.
Dấu chân đi, vẫn trước nhà,
Đám rêu xanh mọc rậm rà nơi nơi.
Rêu dày chẳng quét được rồi,
Gió thu sớm thổi rụng rơi lá vàng.
Bướm về, tháng tám đã sang,
Vườn tây đôi bướm lượn làn cỏ non.
Cảnh này làm thiếp đau lòng,
Ngồi buồn thấy dáng hồng nhan đã già!
Sớm chiều chàng xuống Tam Ba,
Cho thư báo sẵn kẻo nhà trông mong.
Đón nhau chẳng ngại xa đường,
Thiếp đi thẳng bãi Trường Phong đón chàng
Chú thích:
- phú ngạch 覆額: úp lại, nghiêng xuống một bên trán (phú: lật lại, che đậy, úp xuống, xét kỹ, nghiêng đổ... Âm khác là phúc)
- kịch 劇: trò đùa, tấn tuồng, vở kịch, quá mức, nhanh chóng (nguy kịch), quá lắm, diễn trò...
- trúc mã 竹馬: trò chơi trẻ con bẻ cây trúc làm ngựa cưỡi nhong nhong...
- nhiễu sàng 繞床: đi vòng quanh chiếc giường hay sàng đan bằng tre gỗ để nằm (sàng: giường nằm, chỗ nằm đan bằng tre, chỗ gác đồ, sạp để ngồi hoặc nằm...).
- mai 梅: cây mai, cây mơ. Cây mơ có hoa đỏ, trắng. Cây có hoa trắng khi thành trái có vị chua, sắc màu vàng. Trong văn chương nước ta thỉnh thoảng dùng danh từ "thanh mai,trúc mã" để nói về tình yêu khi thuở mới lớn lấy từ bài thơ này.
- vô hiềm sai 無嫌猜: không nghi ngại, ngờ vực. (hiềm sai: đều có nghĩa như nhau là nghi ngờ, ngờ vực...)
- tu nhan 羞顏: vẻ mặt thẹn thùng, xấu hổ, e ấp....
- vị thường khai 未嘗開: chưa từng mở ra
- triển 展: duỗi ra, mở ra, kéo dài ra, xem xét...
- trần dữ hôi 塵與灰: cát bụi cùng với tro tàn bụi bặm, chỉ sự vất vả, gian khó trong đời.
- bão trụ tín 抱柱信: Tương truyền ngày xưa, có chàng họ "Vĩ" 尾, hẹn gặp với người con gái ở dưới cầu. Khi nước thuỷ triều dâng lên, người con gái đã hẹn chưa đến, Vĩ sinh vẫn giữ lời, ôm cột mà chết (xem "Trang Tử" 莊子, thiên "Đạo Chích" 盜跖). Đây chỉ sự giữ vững lời hẹn ước.
- Vọng Phu đài 望夫臺: ở phía bắc tỉnh Vũ Xương, Trung Hoa. có dựng tượng người thiếu phụ đứng trên cao ngóng chồng về. Ở các tỉnh An huy, Giang Tây, Sơn Tây cũng có các di tích tương tự.
- Cù Đường, Diễm Dự đôi 瞿塘灩澦堆: Cù Đường nằm ở cửa Tam Hiệp có tên cũ là Tây Lăng Hiệp. Con sông Dương Tử nằm ở giữa, còn gò đồi (đôi) Diễm Dự nằm ngay cửa sông.
- tảo 掃: quét đi, làm tiêu mất....
- tảo 早: ban mai, buổi sáng sớm, trước....
- cựu hành tích 遲行跡: dấu vết cũ khi ra đi. Đây là dấu chân dấu giày của chồng cô thiếu phụ trẻ.
- nhất nhất 一一: hết tất cả, khắp nơi nơi, hết khắp
- Tam Ba 三 : tức Ba Quân, Ba Tây, Ba Đông thuộc Tứ Xuyên,T.H.
- dự 預: sẵn, tham dự, chuẩn bị
- chí 至: đến, tới nơi
- Trường Phong Sa 長風沙: vùng đất có bãi cát xưa thuộc huyện Quý Trì, An Huy, T.H.
Bài 39/2
TRƯỜNG CAN HÀNH ( Kỳ Nhị) 長干行(其二)
Ức thiếp thâm khuê lý, 憶妾深閨裏,
Yên trần bất tằng thức. 煙塵不曾識.
Giá dữ Trường Can nhân, 嫁與長幹人,
Sa đầu hậu phong sắc. 沙頭候風色.
Ngũ nguyệt nam phong hưng, 五月南風興,
Tư quân há Ba Lăng. 思君下 巴陵。
Bát nguyệt tây phong khởi, 八月西風起,
Tưởng quân phát Dương Tử. 想君發揚子。
Khứ lai bi như hà? 去來悲如何,
Kiến thiểu biệt ly đa. 見少別離多。
Tương Đàm kỷ nhật đáo? 湘潭幾日到?
Thiếp mộng việt phong ba 妾夢越風波。
Tạc dạ cuồng phong độ, 昨夜狂風度,
Xuy chiết giang đầu thụ. 吹折江頭樹。
Diểu diểu ám vô biên, 渺渺暗無邊,
Hành nhân tại hà xứ. 行人在何處。
Bắc khách chân vương công, 北客真王公,
Chu y mãn giang trung. 朱衣滿江中,
Nhật mộ lai đầu túc, 日暮來投宿,
Sổ triêu bất khẳng đông. 數朝不肯東.
Hảo thừa phù vân thông, 好乘浮雲驄,
Giai kỳ lan chử đông. 佳期蘭渚東。
Uyên ương lục bồ thượng, 鴛鴦綠蒲上,
Phỉ thúy cẩm bình trung 翡翠錦屏中。
Tự liên thập ngũ dư, 自憐十五餘,
Nhan sắc đào lý hồng. 顏色桃李紅,
Na tác thương nhân phụ, 那作商人婦,
Sầu thủy phục sầu phong. 愁水復愁風.
Lý Bạch 李白
Dịch nghĩa:
Bài hát Trường Can (bài hai)
Thiếp nhớ khi còn ở trong phòng khuê kín đáo, không hề biết đến khói bụi (trong đời). Lấy chồng cùng người làng Trường Can, (thiếp đến) đầu bãi cát để ngóng tìm sự đổi thay, sắc thái của ngọn gió! (c.1-4)
Vào tháng năm có gió phương nam nổi lên, lòng thiếp nghĩ đến chàng đang xuống Ba Lăng. Khi tháng tám có gió khởi lên từ phương tây, thiếp gửi ra nỗi nhớ mong chàng đang ở sông Dương Tử. (c.5-8)
Trước giờ và sau này, cớ sao (thiếp) lại sầu khổ? Thấy nhau thì ít ỏi, chia xa lại nhiều! Đến Tương Đàm phải mất mấy ngày?! Thiếp nằm mộng thấy phải vượt qua sóng gió (đến cùng chàng). (c.9-12)
Đêm hôm qua ,cơn gió cuồng bạo thổi lùa qua đã làm gãy những cây ở đầu con sông. Nơi xa xăm mờ mịt ,tối tăm không cùng ,người ra đi đang ở nơi chốn nào ? (c.13-16)
Người khách đi phương bắc thực sự là người có dòng dõi quan lớn được phong vương với chiếc áo choàng đỏ bày giữa khắp con sông! Chiều hôm đến ngủ trọ lại nơi đây. Vài buổi sớm mai không chắc là đến được phía đông! (c.17-20)
Chàng rất thích cưỡi con ngựa lông trắng loang lổ nương theo áng mây trôi nổi, đến kỳ hẹn nhau có hoa lan đẹp nơi bãi sông phía đông. Mong sao như đôi uyên ương trên đám cỏ bồ xanh biếc hay như đôi chim phỉ thúy lộng lẫy, rực rỡ trên bức gấm của chiếc bình phong! (c.21-24)
Đáng thương cho mình mới hơn mười lăm tuổi, dáng vẻ như hoa đào, hoa mận hây hây (má) hồng sao lại thành vợ người buôn bán! (Thiếp) buồn sầu cho con nước lại buồn sầu cho ngọn gió kia! (c.25-28)
Tạm chuyển lục bát:
BÀI HÁT TRƯỜNG CAN (bài hai)
Thiếp còn nhớ lúc phòng khuê,
Cuộc đời khói bụi chưa hề biết qua!
Trường Can làm vợ người ta,
Gió màu đầu bãi ngóng đà đổi chăng!
Gió nam lồng lộng tháng năm,
Nghĩ rằng nơi ấy Ba Lăng có chàng.
Gió tây tháng tám thổi tràn,
Gửi ra Dương Tử nhớ chàng biết bao.
Cớ chi buồn khổ trước sau?!
Thấy nhau ít ỏi, xa nhau đã dày,
Tương Đàm cách đó bao ngày?
Vượt lên sóng gió thiếp vầy mộng xa.
Đêm rồi gió mạnh lướt qua,
Nhiều cây gãy gục gió lùa đầu sông.
Mịt mờ tăm tối không cùng!
Người đi đang ở nơi vùng nào đây?
Vương công khách bắc đúng rày,
Giữa sông áo đỏ trải bày nơi nơi!
Chiều hôm chỗ trọ nghỉ ngơi,
Về đông mấy buổi sáng trời chắc đâu!
Cưỡi mây, ngựa trắng loang màu,
Bãi đông lan đẹp, hẹn nhau đợi chờ.
Uyên ương xanh thắm cỏ bồ,
Tấm che phỉ thúy lượn lờ gấm bay.
Hơn mười lăm tuổi thương thay!
Dáng như đào mận hây hây thắm hồng!
Sao làm vợ kẻ thương buôn?!
Đã buồn con nước lại buồn gió kia!
Chú thích:
* * Có nhiều bản dịch bài Trường Can Hành này. [chẳng hạn như bản của GS Trần Trọng San (Thơ Đường cuốn II -Nxb Bắc Đẩu 1970, Saigon) không có câu 17-20] Bản đang sử dụng là dị bản vì ý tứ từ hai câu 17,18 nói về một người có dòng dõi vương công cùng hình ảnh mặc áo đỏ (chu y) của nhà quan quyền, giàu có không phù hợp với hình ảnh người chồng thương nhân vất vả ngược xuôi của cô thiếu phụ trẻ ở Trường Can. (Tạm đưa bốn câu này vào để khi nào có tài liệu chính xác hơn sẽ hiệu đính lại).
- Trường Can 長幹: tên một ngôi làng nay ở Giang Ninh, Giang Tô 江苏, gần bên tỉnh An Huy, Trung Hoa. Theo truyền thuyết kể lại, Lý Bạch đã gặp một người thiếu phụ son trẻ lấy chồng thương buôn ở đất Trường Can phải thường xuyên xa nhà theo việc buôn bán để vợ một mình mong ngóng. Lý Bạch cảm thương làm hai bài thơ này.
- giá 嫁: người con gái đi lấy chồng, kết hôn.
- hậu 候: mong ngóng, chờ đợi thay đổi, khí hậu...
- Ba Lăng 巴陵: tên một huyện nay thuộc huyện Nhạc Dương, Hồ Nam, T.H.
- phát 發: ra đi (xuất phát), mở ra, bắn ra, sáng rõ ra, nổi lên, gửi ra, gửi đi...
- Dương Tử 揚子: Sông Dương Tử hay còn gọi là Trường Giang dài 6385 km là con sông lớn nhất Trung Hoa phát xuất từ cao nguyên Thanh Tạng ở phía tây vùng Tây Tạng. Nước Tây Tạng xưa kia không thuộc về Trung Hoa, từ đây sông Dương Tử chảy qua nhiều vùng Hoa Nam, Hoa Bắc rồi đi qua An Huy chảy ra biển Hoa Đông.
- Tương Đàm 湘潭: tên một huyện thuộc tỉnh Hồ Nam, T.H.
- diểu diểu (hay là miểu miểu) 渺渺: xa xăm mờ mịt, mênh mông mặt nước.
- chân 真: đúng như thế ,đúng thực sự; lối viết chữ chân: nghĩa là viết rõ ràng...
- vương công 王公: những quan lớn được phong vương tước.
- đầu túc 投宿: ngủ lại nghỉ ngơi nơi nhà trọ.
- sổ triêu bất khẳng 數朝不肯: đếm vài buổi sáng sớm nhưng không chắc chắn lắm.
- hảo 好: tốt đẹp, yêu thích, mong muốn, rất, lắm...
- thông 驄: con ngựa có lông trắng loang lổ.
- chử 渚: bãi ,gò nổi ở ven sông, bến nước, cồn bãi nhỏ.
- uyên ương 鴛鴦: giống chim nước hay loài vịt nhỏ. Con đực có lông cổ trắng dài, cánh rộng dáng đẹp, còn con cái không có lông mã, cánh nhỏ xấu, luôn luôn đi cặp đôi với nhau trong các ao hồ Chỉ sự gắn bó của các đôi vợ chồng không bao giờ lìa xa nhau.
- bồ 蒲: một loại cỏ lác sống dưới nước có thể ăn được khi còn non; cỏ già thường hái phơi khô làm chiếu.
- phỉ thúy 翡翠: tức chim trả có bộ lông lộng lẫy, nhiều màu sắc thường bị bắt lấy lông làm trang sức.
- na tác 那作: sao lại chịu làm...
BÀI 40
TÔ ĐÀI LÃM CỔ 蘇臺覽古
Cựu uyển hoang đài dương liễu tân, 舊苑荒臺楊柳新,
Lăng ca thanh xướng bất thăng xuân. 菱歌聲唱不勝春.
Chỉ kim duy hữu Tây Giang nguyệt, 只今惟有西江月,
Tằng chiếu Ngô vương cung lý nhân! 曾照吳王宮裏人。
Lý Bạch 李白
Dịch nghĩa:
Ngắm cảnh xưa ở đài Cô Tô
Nơi vườn cũ, đài xưa đã thành hoang phế bên những cây dương liễu còn mới! Bài hát "Lăng ca" vang lên (làm cho) mùa xuân rộn ràng không nguôi. Nay chỉ còn có vầng trăng trên dòng Tây Giang đã từng soi chiếu vua Ngô (Phù Sai) và nàng cung nữ (Tây Thi) ở trong đó.
Tạm chuyển lục bát:
NGẮM CẢNH XƯA Ở ĐÀI CÔ TÔ
Đài hoang, liễu mới vườn xưa,
Lăng ca tiếng hát dậy mùa xuân tươi.
Tây Giang nay vẫn trăng ngời,
Từng soi Ngô chúa với người trong cung.
Chú thích:
- Tô đài 蘇臺: tức là đài Cô Tô do vua Ngô Phù Sai cho xây dựng để làm nơi ở của Tây Thi. Đài nằm trên núi Cô Tô, huyện Ngô, tỉnh Giang Tô, T.H.
- Lăng ca 菱歌: bài hát bên cây ấu Đây là tên của một bài hát đương thời.
- bất thăng 不勝 không chịu được, không xiết, không nguôi...
- chỉ kim 只: nay chỉ có, ngày nay chỉ l......
- Tây Giang 西江 dòng Tây Giang tức sông Trường Giang chảy từ cao nguyên Thanh Tạng (Thuộc nước Tây Tạng xưa, tách biệt với nước T.H. Từ xưa nhiều triều đại Trung Hoa vẫn tìm cách xâm lược vùng Tây Tạng núi non hiểm trở này. Từ 1949, chế độ Trung Hoa Cộng Sản đã cưỡng chiếm, sát nhập vào lãnh thổ của họ)
BÀI 41
北風行 BẮC PHONG HÀNH
燭龍棲寒門, Chúc long thê hàn môn,
光曜猶旦開。 Quang diệu do đán khai.
日月照之何不 Nhật nguyệt chiếu chi hà bất cập thử,
惟有北風號怒天上來。 Duy hữu bắc phong hào nộ thiên thượng lai.
燕山雪花大如席, Yên Sơn tuyết hoa đại như tịch,
片片吹落軒轅臺。 Phiến phiến xuy lạc Hiên Viên đài.
幽州思婦十二月 U Châu tư phụ thập nhị nguyệt,
停歌罷笑雙蛾摧。 Đình ca bãi tiếu song nga tồi.
倚門望行人, Ỷ môn vọng hành nhân,
念君長城苦寒良可哀。 Niệm quân Trường Thành khổ hàn khả ai.
別時提劍救邊去, Biệt thời đề kiếm cứu biên khứ,
遺此虎紋金鞞革叉。 Di thử hổ văn kim bỉ bính xoa.
中有一雙白羽箭, Trung hữu nhất song bạch vũ tiễn,
蜘蛛結網生塵埃。 Tri thù kết võng sinh trần ai.
箭空在, Tiễn không tại,
人今戰死不復回。 Nhân sầu chiến tử bất phục hồi.
不忍見此物, Bất nhẫn kiến thử vật,
焚之已成灰。 Phần chi dĩ thành khôi,
黃河捧土尚可塞, Hoàng Hà phủng thổ thượng khả tắc,
北風雨雪恨難裁。 Bắc phong vũ tuyết hận nan tài.
李白 Lý Bạch
Dịch nghĩa:
Bài hát về cơn gió bấc
Ngọn đuốc (mang hình tượng) rồng đã dừng lại trên chiếc cửa lạnh lẽo khi ánh sáng buổi sáng sớm mở ra. Mặt trời và mặt trăng sao chẳng kịp thời chiếu soi vào nơi này! Chỉ có cơn gió bắc gào thét giận dữ từ trên trời đến mà thôi! (c. 1-4)
Những đám hoa tuyết nơi ngọn Yên Sơn như chiếc chiếu rộng lớn. Từng mảng hoa tuyết gió thổi làm rơi xuống đài Hiên Viên. Vào tháng chạp, người đàn bà đang nhớ mong ở châu U đã ngừng ca hát và thôi cười với đôi mày ngài bi thương ( c. 5-8)
Dựa cửa trông ngóng người ra đi, (thiếp) rất xót xa khi nghĩ đến chàng đang chịu khổ cực, giá rét nơi Trường Thành. Lúc chia tay cầm kiếm ra đi cứu giúp vùng biên giới, (chàng) đã để sót lại bao da vàng có chạm hình con hổ vằn vện đang bắt chéo chân, trong đó có một cặp mũi tên cài lông vũ trắng. Đám nhện đã giăng lưới để cho bụi bặm bám vào (c. 9-14)
Mũi tên trơ trọi lặng lẽ còn ở đó, người (ở lại) sầu đau khi người đi chinh chiến đã chết trận không quay về lại. Không nỡ lòng thấy vật này nên đốt đi thành tro tàn! (c.15-18)
Hoàng Hà có thể vốc đất mong cho lấp kín đi. Căm giận sao những cơn gió từ phương bắc và mưa tuyết khó lường được! (c. 19-20)
Tạm chuyển lục bát:
BÀI HÁT VỀ CƠN GIÓ BẤC
Đuốc rồng cửa lạnh đã ngừng,
Tưởng như ban sớm mở bung ánh trời!
Trời trăng chẳng kịp sáng soi,
Thét gào gió bấc trên trời đến đây.
Yên Sơn chiếu tuyết rộng bày,
Hiên Viên từng mảng rớt đài gió tung.
Châu U tháng chạp nhớ nhung,
Dừng cười, thôi hát đượm buồn đôi mi.
Tựa vào cửa, ngóng người đi,
Trường Thành rét khổ sầu bi nhớ chàng.
Chia tay cứu ải kiếm mang,
Sót bao vàng chạm hổ vằn khuỳnh chân.
Cặp tên lông trắng ở trong,
Nhện giăng lưới dính bụi lồng bám vô!
Mũi tên trong đó vắng trơ,
Không về, chết trận để cho người sầu!
Vật kia không nỡ nhìn đâu!
Đốt cho cháy rụi thành màu bụi tro.
Sông Hoàng bưng đất lấp cho,
Gió mưa tuyết bắc khó dò, hận sao!
Chú thích:
- thê 棲: nghỉ ngơi, đậu lại, ngừng nghỉ, thôi...
- diệu 曜: ánh sáng mặt trời, mặt trăng (lưỡng diệu), chói mắt ...
- do 猶: vẫn còn, mà còn, con khỉ, do dự, mưu kế, ngõ hầu...
- đán 旦: ban ngày (ngày đầu năm: nguyên đán ;buổi sáng mùa xuân: xuân đán), buổi sáng sớm, nghỉ ngơi, đậu lại, ngừng nghỉ, thôi...
- Yên Sơn 燕山: nằm trong vùng U châu tức U Yên gồm Trực Lệ và Phụng Tiên (Hà Bắc &Liêu Ninh, T.H)
- tịch 席: chiếc chiếu để ngồi, bữa tiệc, chỗ ngồi, bao quát, rộng lớn, nhờ vào...
- Hiên Viên đài 軒轅臺: Hiên Viên tức Hoàng Đế là ông vua mở đầu cho thời đại Ngũ Đế (2550-2140 TCN) tương truyền được sinh ra ở Hiên Viên có công dẹp loạn Xuy Vưu nên được tôn làm vua và dựng đài tưởng niệm .Người T.H cho rằng ông đã đặt ra phép tắc ,luật lệ ,thiên văn ,âm nhạc tạo nên xã hội có tổ chức đặt nền móng cho các nước T.H. sau này.
- tồi 摧: bi thương, bẻ gãy, phát cỏ, phá vỡ, diệt hết...
- Trường Thành 長 : thành lũy kéo dài qua nhiều tỉnh phía bắc có từ thời Tần Thủy Hoàng của Trung Hoa nhằm ngăn chặn các bộ tộc bên kia biên giới thường đem quân cướp phá vùng trung nguyên. Các đời sau kéo dài dãy thành cũ thêm nên gọi là Vạn Lý Trường Thành.
- di 遺 此: để lại, để quên, đánh rơi, bỏ sót lại ở bên này
- văn 紋: nếp nhăn, hình vằn vện, gỗ có vân.
- bỉ bính 鞞革: bao da đựng tên hoặc đao kiếm, bao kiếm.
- xoa 叉: dạng ra, khuỳnh ra, xòe ra, bắt chéo chân tay, ùn tắc...
- phần 焚: thiêu đốt, khô cháy, ráo, bại hoại...
- khôi (hôi) 灰: tro tàn, màu tro, nguội lạnh, thờ ơ, lãnh đạm...
- phủng 捧: bưng bê, mang, ôm, tâng bố, vốc, nịnh nọt...
- thượng 尚: ngõ hầu, mong mỏi, đứng đầu, coi sóc, hơn hẳn, vượt trội, vẫn còn, còn lâu, khoe khoang, thời thượng
- tắc 塞: ách tắc, ngăn trở, nghẽn, ứ, lấp kín (một âm là tái: biên tái, biên giới).
- tài 裁: cắt may quần áo, rạch xé, xét đoán, lường định, dò xét...
Saigon , Th. 7 /2017
Dương Anh Sơn
(Lần đến: Bài 41, 42, 43)