Thứ Ba, 14 tháng 12, 2021

Thơ Chữ Hán Của Nguyễn Du - Thanh Hiên Thi Tập Bài 45, 46, 47


THANH HIÊN THI TẬP - BÀI 45, 46, 47
Thầy Dương Anh Sơn

Bài 45

TẠP NGÂM (Kỳ nhất)                                                      
( )

 
Thu thanh nhất dạ độ Lam hà,                                            
秋聲一夜渡藍河
Vô ảnh vô hình nhập ngã gia.                                              
無影無形入我家
Vạn lý tây phong lai bạch phát,                                           
萬里西風來白髮
Nhất song thu sắc tại hoàng hoa.                                         
一窗秋色在黃花
Bách niên ai lạc hà thời liễu?                                             
百年哀樂何時了
Tứ bích đồ thư bất yếm đa.                                                
四壁圖書不厭多
Đình thực cô tùng cao bách xích,                                        
庭植孤松高百尺
Bất tri Thanh Đế nại nhân hà?                                            
不知青帝奈人何
Nguyễn Du                                  
                                           


Dịch nghĩa:
Một đêm, tiếng thu đã không hình cũng chẳng có bóng vượt qua sông Lam vào nhà của ta. Ngọn gió từ phía tây thổi đến làm cho tóc bạc trắng. Qua khung cửa sổ, sắc màu mùa thu trải trên đám hoa vàng. Trăm năm nỗi buồn, niềm vui đến bao giờ mới chấm dứt? Bốn bức tường sách vở, tranh ảnh cũng đủ dùng. Phía trước sân nhà có trồng cây tùng lẻ loi đã cao trăm thước. Không biết là chúa xuân có làm gì với người (trồng cây) đây!

Tạm chuyển lục bát:

TẠP NGÂM (Bài một)

Tiếng thu đêm vượt Lam Hà,
Không hình chẳng bóng nhà ta đi vào.
Gió tây ngàn dặm bạc đầu,
Sắc thu bên cửa hoa màu vàng tươi.
Trăm năm nào hết buồn vui,
Bốn tường sách vở đầy nơi đủ dùng.
Tùng cao trăm thước trồng sân,
Ai người làm được ,chúa xuân biết nào!

Chú thích:
- Lam Hà 藍河: hay Lam Thủy chỉ dòng sông Lam ở Hà Tĩnh.
- đồ thư 圖書: tranh ảnh và sách vở, chỉ chung về sách vở.
- bất yếm đa 不厭多: (yếm: đầy đủ), không được đầy đủ nhiều lắm nhưng vừa đủ dùng.
- thực 植: trồng trọt, ươm trồng, cắm vào, dựa vào…
- Thanh Đế 青帝: tức chúa xuân. Dùng như chữ Đông Đế hoặc Đông Quân.

- nại nhân hà 奈人何: ai người làm được....

 

Bài 46

TẠP NGÂM (Kỳ nhị)                                                   
( )

 
Long Vĩ giang đầu ốc nhất gian,                                    
龍尾江頭屋一間
U cư sầu cực hốt tri hoan.                                             
幽居愁極忽知歡
Đạt nhân tâm cảnh quang như nguyệt,                         
達人心境光如月
Xử sĩ môn tiền thanh giả san.                                         
處士門前靑者山
Chẩm bạn thúc thư phù bệnh cốt.                                 
枕畔束書扶病骨
Đăng tiền đấu tửu khởi suy nhan.                                 
燈前斗酒起衰顏
Táo đầu chung nhật vô yên hoả,                                   
灶頭終日無煙火
Song ngoại hoàng hoa tú khả xan.                                 
窗外黃花秀可餐
Nguyễn Du                                  
                                     

Dịch nghĩa:
Ở đầu sông Long Vĩ có một gian nhà tranh. Người đang ở chốn vắng vẻ này buồn quá chợt thấy vui. Cõi lòng của người thông hiểu đức nhân, sáng sủa như ánh trăng. Trước cửa nhà của kẻ ở ẩn là dãy núi màu xanh biếc. Có bó sách bên cạnh gối đỡ xương cốt đang bệnh đau. Trước ánh đèn, có đấu rượu để bắt đầu cho làn mặt tiều tụy (được tươi lên). Suốt cả ngày, bếp ăn không khơi lửa khói, (vì) bên ngoài cửa sổ có hoa cúc vàng tươi đẹp có thể ăn được rồi.

Tạm chuyển lục bát:

TẠP NGÂM (Bài hai)

Đầu sông Long Vĩ một nhà,
Quá buồn chốn vắng chốc đà hân hoan!
“Đạt nhân” lòng sáng như trăng,
Trước nhà “xử sĩ” núi giăng xanh màu.
Gối bên sách, đỡ xương đau,
Trước đèn nhấp rượu kẻo màu mặt phai.
Chẳng cơi bếp lửa suốt ngày,
Ngoài song có thể ăn thay cúc vàng!

Chú thích:
- Long Vĩ 龍尾: còn gọi là Long Giang. Đây là một nhánh sông của dòng Lam ở gần quê Nguyễn Du.
- u cư 幽居: nơi ở vắng vẻ, cũng là nơi của những người lánh đời, sống ẩn dật.
- đạt nhân 達人: thường dùng trong đạo Nho và đạo Lão, chỉ những người thông hiểu lẽ sống, hiểu rõ lý lẽ sâu xa của con người và sự vật.
- xử sĩ 處士: người có tri thức, hiểu biết nhưng do thời thế phải chọn con đường lánh đời, ở ẩn không ra làm việc bên ngoài xã hội.

- chẩm bạn  枕畔: bên chiếc gối (bạn: bên, bờ, ven...)

- thúc thư  束書: sách đem bó lại, buộc lại với nhau...

- phù  扶: đỡ đần, giúp đỡ...

- suy nhan  衰顏: vẻ mặt phai tàn, suy giảm (không còn hồng hào, tươi tắn)
- cơi: cách nói của dân gian miền Trung VN chỉ việc khơi lửa cho bếp bùng lên (cơi lửa, cơi bếp…)
- tú 秀: lúa lên đòng sắp chín, đẹp diễm lệ, rất đẹp.

 

Bài 47

 
TẠP NGÂM (Kỳ tam)                                              
  吟(其 三)


Mạc mạc thu quang bát nguyệt thâm,                         
漠漠秋光八月深
Mang mang thiên khí bán tình âm.                             
茫茫天氣半晴陰
Thu phong cao trúc minh thiên lại,                             
秋風高竹鳴天籟
Linh vũ hoàng hoa bố địa câm (kim).                         
零雨黃花布地金
Viễn tụ hàn xâm du tử mộng,                                     
遠岫寒侵遊子夢
Trừng đàm thanh cộng chủ nhân tâm.                       
澄潭清共主人心
Xuất môn từ bộ khan thu sắc,                                     
出門徐步看秋色
Bán tại giang đầu phong thụ lâm.                               
半在江頭楓樹林
Nguyễn Du                                  
                                   
 

Dịch nghỉa:
Cuối tháng tám, ánh sáng mùa thu mang vẻ lặng lẽ và xa xăm. Khí trời mênh mông nửa trời có nắng, nửa sáng mờ, râm nắng. Gió thu thổi qua khóm trúc cao thành tiếng sáo trời vang vang. Cơn mưa rơi lác đác làm những hoa cúc vàng trải trên mặt đất như sắc vàng. Hơi lạnh từ những ngọn núi xa xa như thấm vào giấc mộng của người đi. Đầm nước gạn lắng, trong veo như lòng người chủ. Ra khỏi cửa, bước đi thong dong ngắm cảnh sắc mùa thu. Từ đầu con sông thấy một nửa rừng phong.
    
Tạm chuyển lục bát:

TẠP NGÂM (Bài ba)

Ánh thu tháng tám xa xôi,
Sáng mờ râm nắng bầu trời mênh mang.
Gió thu sáo trúc cao vang,
Mưa rơi hoa cúc trải vàng mặt sân.
Người đi thấm mộng lạnh căm,
Lòng người chủ lắng như đầm nước trong.
Ngắm thu ra ngõ thong dong,
Từ đầu sông thấy rừng phong nửa phần.

Chú thích:
- mạc mạc 漠漠: xa xôi, vắng vẻ, lặng lẽ.
- mang mang 茫茫: mênh mông, rộng lớn.
- linh vũ 零雨: mưa lác đác, rải rác.
- hoàng hoa 黃花: hoa vàng tức hoa cúc vàng là hoa tượng trưng cho mùa thu.
- viễn tụ 遠岫: ngọn núi hay hang núi ở xa xa.
- trừng 澄: gạn lắng, gạn lọc.
- từ bộ 徐步: đi thong thả, không vội vàng.
- phong thụ 楓樹: cây phong về mùa thu lá chuyển sang màu vàng đỏ tạo nên một dáng sắc mùa thu.

(Lần đến: Bài 48, 49, 50/Thanh Hiên Thi Tập)

Saigon, 2003

Dương Anh Sơn

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét