Bài 20:
春 日 獨 酌 XUÂN NHẬT ĐỘC CHƯỚC
春風扇淑氣,
1
Xuân phong phiến thục khí,
水木榮春暉。
Thủy mộc vinh xuân huy.
白日照綠草,
Bạch nhật chiếu lục thảo,
落花散且飛。
4
Lạc hoa tán thả phi.
孤雲還空山,
Cô vân hoàn không sơn,
眾鳥各已歸。
Chúng điểu các dĩ quy.
彼物皆有托,
Bỉ vật giai hữu thác,
吾生獨無依。
8
Ngô sinh độc vô y.
對此石上月,
Đối thử thạch thượng nguyệt,
長醉歌芳菲。
10
Trường túy ca "phương phi".
李白
Lý Bạch
Dịch nghĩa:
Ngày xuân một mình
uống rượu.
Ngọn gió mùa xuân quạt khí trời trong lành. Cây và nước tươi tốt,rỡ ràng trong
ánh nắng mùa xuân. Ánh nắng mặt trời trắng xóa soi chiếu cỏ màu xanh lục. Những
cánh hoa rơi rụng bay tán loạn. Những áng mây lẻ loi lại quay trở lại ngọn núi
vắng vẻ. Các loài chim đều đã trở về. Các loài vật kia đều có nơi nhờ cậy,
cuộc sống của riêng ta không có nơi nương tựa. Trước vầng trăng chiếu soi trên
tảng đá, ta say sưa hát mãi bài ca "Hương thơm ngát".
Dịch thơ:
NGÀY XUÂN MỘT MÌNH UỐNG
RƯỢU.Khí
xuân lành gió quạt,
Cây nước,nắng xuân tươi.
Ánh trời soi cỏ thắm,
Hoa bay tản mát rơi.
Mây đơn về núi vắng,
Chim chóc đều về rồi.
Vật kia có nơi tựa,
Ta không chốn trong đời.
Ngắm trăng trên tảng đá,
Ca "Hương ngát "say vời.
Chú thích:
- thục khí 淑氣: không khí trong lành dễ chịu
(thục: yên lành, đẹp đẽ).
- vinh 榮: tươi tốt, rỡ ràng, vinh hiển.
- huy 暉: màu sắc của ánh sáng mặt trời, ánh nắng
trời, màu nắng.
- tán thả 散且: tản mát và lộn xộn
không theo một trật tự nào.
- không sơn 空山: núi non vắng lặng,
yên tĩnh.
- bỉ vật 彼物: các loài vật khác,
các vật khác.
- thác 托: gửi vào,gửi gắm, nhờ vào, nương cậy, chỗ dựa
vào.
- y 依: theo,y như cũ, y như thế, dựa vào, dáng cây
cối tươi tốt.
- phương phi 芳菲: phương: hương thơm
của cỏ, có đạo đức tốt đẹp được lưu truyền. Phương phi là mùi thơm
tho,ngát hương của cây cỏ và cũng là tên bài hát thời đó.
Bài 21:
春思 XUÂN TỨ
燕草如碧絲,
Yên thảo như
bích ti,
秦桑低綠枝。
Tần tang đê lục
chi.
當君懷歸日,
Đương quân hoài quy nhật,
是妾斷腸時。
Thị thiếp
đoạn trường thì,
春風不相識,
Xuân phong
bất tương thức.
何事入羅幃?
Hà sự nhập
la vi ?!
李白
Lý Bạch
Dịch nghĩa:
Những ý nghĩ trong mùa xuân.
Cỏ đất Yên giống như là những sợi tơ xanh biếc. Còn cây dâu đất Tần cành lá màu
xanh lục buông rủ xuống. Giữa lúc ban ngày chàng mong nhớ việc quay về cũng
chính là khi lòng thiếp đớn đau não nề (với nỗi nhớ nhung chàng). Cơn gió mùa
xuân không hề quen biết kia cớ sao lại đi vào trong phòng khuê (của thiếp).
Tạm chuyển lục bát:
Ý XUÂN.
Cỏ Yên biên biếc như tơ,
Dâu Tần rủ nhánh ơ hờ xanh ghê.
Đương ngày chàng nhớ quay về,
Là khi lòng thiếp não nề đớn đau.
Gió xuân nào có quen đâu!
Phòng the sao lại đi vào chốn đây?
Chú thích:- tứ 思: âm của chữ tư (suy nghĩ, buồn thương, nhớ mong) có nghĩa là những ý nghĩ, ý tứ.
- Yên 燕: Yên là tên vùng đất xưa của nước Yên bao gồm
miền bắc tỉnh Hà Bắc và đông bắc tỉnh Sơn Tây vốn là nước chư hầu của nhà
Chu bên Trung Hoa, tồn tại từ thời kỳ Tây Chu, Xuân Thu đến thời Chiến Quốc rồi
bị nhà Tần thôn tính (226 TCN). Vùng đất Yên xưa kia là những đồng cỏ lớn
thuận tiện cho việc chăn nuôi. Mùa xuân đến cỏ non mới mọc xanh mơn mởn như tơ
biếc đầy sức sống theo cách nhìn của Lý Bạch.
- Tần 秦: vùng đất Tần là một lãnh thổ nhỏ ở vùng
Thiểm Tây Trung Hoa, chư hầu nhà Chu. Về sau trở thành một nước hùng mạnh thâu
tóm hết thảy các chư hầu khác (Tề, Sở,Yên, Hàn, Triệu, Ngụy), thống nhất
Trung Hoa nhưng chỉ tồn tại được chỉ 15 năm (221 - 206 TCN). . Thời nhà
Tần, hầu như trai tráng của các nước chư hầu bị chinh phục đều bị đi lính làm quân
lính cho Tần Doanh Chính (tức Tần Thủy Hoàng sau này) để thôn tính các chư hầu
còn lại gây ra cảnh chia ly,tang tóc của bao gia đình hoặc những đôi nam nữ
đang yêu nhau..... Khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Hoa,vùng Quảng
Đông,Quảng Tây vẫn là vùng của các bộ tộc Bách Việt chứ chưa là vùng đất của
nhà Tần. Dần dà các triều đại sau tìm cách chinh phục và đẩy nhiều bộ tộc đi
định cư vùng khác.... Thời Đường Huyền Tôn của Lý Bạch cũng có nước Hậu Yên do
tể tướng An Lộc Sơn tạo phản lập nên (755-763) ở kinh đô Lạc Dương khiến vua
Đường phải chạy vào đất Thục. Đó cũng là thời kỳ loạn lạc nhưng không liên quan
gì đến nhà Tần cách đó trên 900 năm.Cho nên về mặt sử liệu, vùng đất
Tần hay đất Yên được Lý Bạch đề cập chỉ là mượn hình ảnh chiến chinh,loạn lạc
thời Chiến Quốc xa xưa để nói đến nhiều hoàn cảnh trai gái phải chia ly nhớ
nhung xa cách đương thời. Vùng đất Tần xưa cũ là vùng trồng rất
nhiều cây dâu để lấy lá nuôi tằm lấy kén là hình ảnh thanh bình, vui với việc
nông tang.Mùa xuân cây cỏ tươi tốt như mối tình nam nữ dù bị chia ly vẫn luôn
tiềm tàng sức sống và luôn nhớ về nhau......
- đoạn trường thì 斷 腸 時: lúc lòng đau như
cắt.
- tương thức 相 識: quen biết nhau, hiểu nhau.
- hà sự 何 事: cớ sao, cớ chi, vì sao...
- la vi 羅 幃: vi: màn treo che cửa sổ, váy phụ nữ,cái túi.
Đây chỉ phòng những cô gái hoặc thiếu phụ khuê các có màn treo cửa bằng
lụa mỏng nên vẫn gọi là phòng khuê hoặc phòng the (the là loại lụa được
dệt thưa có lỗ đan xen cho đẹp và thoáng)
Bài 22:
採蓮曲(其一) THÁI LIÊN KHÚC (kỳ nhất)
若耶溪旁採蓮女,
Nhược Da khê bạng thái liên nữ,
笑隔荷花共人語。
Tiếu cách hà hoa cộng nhân
ngữ
照新粧水底明,
Nhật chiếu tân trang thủy để minh,
風飄香袂空中舉。 Phong phiêu
hương duệ không trung cử.
採蓮曲 (其二) THÁI LIÊN KHÚC (kỳ nhị)
岸上誰家遊冶郎 Ngạn thượng thùy gia du dã
lang,
三三五五映垂楊
Tam tam ngũ ngũ ánh thùy
dương.
紫騮嘶入落花去 Tử lưu tê nhập lạc hoa
khứ,
見此踟躕空斷腸 Kiến thử trì trù không đoạn
trường.
李白 Lý Bạch
Dịch nghĩa:
Khúc hát hái sen.
- Bài một: Những cô gái hái sen gần bên khe Nhược Da.
Tiếng cười cách những đóa hoa sen cùng với tiếng người trò chuyện râm rang. Ánh
mặt trời chiếu vào trang sức của họ sáng ngời lên dưới đáy nước.Cơn gió lồng
lộng đưa mùi thơm của áo lên khoảng không.
- Bài hai: Ở bờ sông phía trên là mấy gã lang bạt nhà ai đang rong chơi?! Ánh sáng từ hàng thùy dương soi thấy năm ba người ấy. Tiếng con ngựa màu tía
hí vang (làm cho) những cánh hoa rơi. Trông thấy cảnh đó, (ta) tần ngần
lặng người đau xót!
Tạm chuyển lục bát:
KHÚC HÁT HÁI SEN.
Bài một
Hái
sen khe Nhược mấy nàng,
Cách hoa sen thắm râm rang nói cười.
Ánh trời trang sức nước soi.
Gió đưa hương áo thơm vời khoảng không.
Bài hai
Bờ
trên mấy gã lang bang,
Thùy dương ánh rọi vài chàng rong chơi.
Hí van! Hoa rụng tơi bời
Bâng khuâng xem thấy lặng người xót xa!
Chú thích:
Bài 1:
- Nhược Da 若耶: tên khe nước nơi
người đẹp Tây Thi từng giặt lụa ở Cối Kê, Chiết Giang,Trung Hoa. Tây Thi theo
truyền thuyết là người làng Trữ La có sắc đẹp "chim sa cá lặn". Tôi
thần của Việt vương Câu Tiễn là Phạm Lãi bầy kế tìm người thật đẹp và chọn được
Tây Thi đem về rèn luyện về ca múa,dáng đi,cách nói... v.v... để đem cống nạp
cho Ngô vương. Ngũ Tử Tư, đại thần của Ngô vương Phù Sai can ngăn không được.
Phù Sai vì say đắm Tây Thi bỏ bê việc nước khiến nước Ngô bị Câu Tiễn tiêu diệt. Tây
Thi ngoài chuyện giặt lụa cũng từng đi hái hoa sen bên khe Nhược Da. Dương Quý
Phi, Tây Thi là một trong những người đẹp đem lại nguồn cảm hứng cho nhà thơ Lý
Bạch....
- bạng 旁: bên cạnh,gần gũi.
- phong phiêu 風飄: gió cuốn lên, gió
lay động,gió lộng.
- duệ 袂: tay áo, chỉ chung về áo.
- cử 舉: cất lên, dẫn đến, bốc lên,tất cả...
Bài 2:
- thùy gia 誰家: nhà ai, nhà nào...
- du dã lang 遊冶郎: dã du: chơi bời;
lang: chàng trai trẻ. Đây chỉ chàng trai trẻ ham chơi bời, lêu lổng.
- tử lưu 紫騮: tên một loài ngựa có
lông màu đỏ tía, bờm đen.
- trì trù 踟躕: tần ngần, do dự, bâng
khuâng...
- không 空: vắng lặng, trống
trải, khoảng không...
Dương Anh Sơn