Thứ Bảy, 26 tháng 6, 2021

Thơ Đỗ Phủ - Thu Hứng - Bài 1, 2/5 bài

GIỚI THIỆU

Xin hân hạnh giới thiệu đến quý Thầy, Cô, quý Đồng Môn và Thân Hữu

Thơ Đỗ Phủ - THU HỨNG Bài 1, 2/5,  do thầy Dương Anh Sơn chuyển  dịch và biên soạn rất công phu.

"Chào BBT NHHN,

Ngoài toàn tập THƠ CHỮ HÁN gồm tất cả 227 bài  của Nguyễn Du và 100 bài thơ của Lý Bạch đang lần lượt đăng tải trên NHHN để giới thiệu với các bạn, thỉnh thoảng tôi xin giới thiệu một số bài thơ của các nhà thơ lớn của Trung Hoa như Đỗ Phủ, Vương Duy, Bạch Cư Dị, Lý Thương Ẩn, Thôi Hiệu...v.v... để thấy được phần nào  tài hoa và sâu sắc của các nhà thơ đời Đường. Tôi cũng sẽ gửi đến BBT toàn bộ THƠ CHỮ HÁN của Nguyễn Trãi đã được in và xuất bản (2009) cùng các tác phẩm khác. Hôm nay, tôi xin gửi đến BBT, 2 bài thơ của Đỗ Phủ trên 153 bài đã được tôi chuyển dịch sang lục bát. Chúc BBT luôn khỏe và vui."

Kính mời quý vị thưởng thức

Trân trọng

NHHN


Ảnh - internet

THƠ ĐỖ PHỦ: THU HỨNG - Bài 1, 2/5 bài
Thầy Dương Anh Sơn

BÀI 1 

秋興 (其一)                                         THU HỨNG (kỳ 1)

玉露凋傷楓樹林,                            Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
巫山巫峽氣蕭森。                            Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm  
江間波浪兼天湧,                            Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng  
塞上雲接地陰。                                Tái thượng phong vân tiếp địa âm. 
叢菊兩開他日淚,                            Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,  
孤舟一繫故園心。                            Cô chu nhất hệ cố viên tâm.  
寒衣處處催刀尺,                            Hàn y xứ xứ thôi đao xích,  
白帝城高急暮砧。                            Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.
杜甫                                                    Đỗ Phủ

 
Dịch nghĩa:                  

Cảm hứng mùa thu (bài 1)

Trong rừng cây phong, những hạt móc sương như ngọc đã héo rụng tan tác ,đau thương. Nơi núi Vu và Vu Hiệp (mỏm núi Vu) có khí u ám hiu quạnh.Giữa dòng sông, những cơn sóng dâng vọt lên (như) lấn lướt cả bầu trời! Ngoài quan ải ,gió và mây nối tiếp mặt đất mịt mù, tối tăm. Những khóm cúc hai lần nở, ngày nào đó giọt lệ đã tuôn rơi. Một chiếc thuyền lẻ loi cột chặt nỗi lòng (đang hướng về) chốn vườn xưa. Thúc nhau lấy dao thước để may áo lạnh nơi nơi; thành Bạch Đế trên cao đang dồn dập tiếng chày đập vải lúc chiều tối.


Tạm chuyển lục bát:

THU HỨNG (bài 1)

Rụng tan móc ngọc rừng phong,

Vu Sơn, Vu Hiệp mịt mùng khí dâng.

Vút trời sóng dậy lòng sông,

Gió mây tiếp đất tối sầm ải quan.

Hai lần cúc nở - lệ tràn,

Vườn xưa lòng mãi buộc ràng thuyền côi.

Thước dao giục áo lạnh rồi,

Thành cao Bạch Đế chày bồi chiều hôm.


Chú thích :

- ngọc lộ 玉露: sương móc trên cành lá trông như những viên ngọc.

- điêu thương 凋傷: đau thương, tan tác, héo rụng đau đớn, hư hao, suy tàn...

- hiệp 峽 (giáp, hạp): mỏm núi, eo núi, eo đồi doi ra biển hay hồ nước...

- tiêu sâm 蕭森: u ám vắng vẻ, rậm rạp dày kín, tối tăm vắng lặng, rơi rụng tàn tạ...

- giang gian 江間: giữa dòng sông, giữa lòng sông, giữa đáy sông

- dũng 湧: dâng trào, vọt lên, vụt hiện ra, tuôn trào...

- tái thượng 塞上: bên ngoài thành quách, nơi biên ải quan tái, vùng biên giới ngăn chặn sự xâm nhập...

- tùng cúc 叢菊: bụi, khóm cúc (tùng: tụ tập, họp lại, bụi rậm...)

- tha nhật 他日: ngày nào khác, ngày đó...   

- Bạch Đế thành 白帝城: thành do Công Tôn Thuật cho xây cất (năm 25 SCN) bên khe Cù Đường, thời Tây Hán ở Ba Thục tức Tứ Xuyên, T.H. để phòng thủ khi xưng đế ở Thành Đô.


Bài 2 

秋興 (其二)                                        THU HỨNG (Kỳ 2)


夔府孤城落日斜,                            Quỳ phủ cô thành lạc nhật tà,  
每依南斗望京華。                            Mỗi y Nam Đẩu vọng kinh hoa.
聽猿實下三聲淚,                            Thính viên thực há tam thanh lệ,
奉使虛隨八月槎。                            Phụng sứ hư tuỳ bát nguyệt tra,
畫省香爐違伏枕,                            Hoạ tỉnh hương lô vi phục chẩm,
山樓粉堞隱悲笳。                            Sơn lâu phấn điệp ẩn bi già.  
請看石上藤蘿月,                            Thỉnh khan thạch thượng đằng la nguyệt,
已映洲前蘆荻花。                            Dĩ ánh châu tiền lô địch hoa.
杜甫                                                    Đỗ Phủ
 

Dịch Nghĩa :

Cảm hứng mùa thu (bài 2)

Mặt trời chiếu nghiêng xuống phủ Quỳ trơ trọi. Vẫn thường theo hướng sao Nam Đẩu trông về kinh đô hoa lệ. Nghe vượn hú ba tiếng thực sự, nước mắt lại rơi xuống. Phụng mệnh đi sứ theo chiếc bè tám tháng chỉ uổng phí! Bên lò hương nơi công đường có nhiều họa tiết, tránh việc nằm ép mình xuống gối nằm. Giấu mình đằng sau bức tường ngăn với nhiều bụi phấn tường trên lầu canh của thành núi, tiếng kèn ai oán cất lên. Xin hãy nhìn vầng trăng qua cây đậu tía leo nơi bờ đá trên cao. Ánh sáng mặt trời xế chiều đã dừng lại nơi cồn cát phía trước những đám hoa lau, hoa lách. 


Tạm chuyển lục bát: 

THU HỨNG (bài hai) 

Chiều buông trơ trọi phủ Quỳ,

Vẫn theo Nam Đẩu kinh kỳ ngóng qua.

Nghe ba tiếng vượn - lệ sa,

Uổng công đi sứ theo bè tám trăng.

Lò hương, công sở tránh nằm,

Bên tường ai oán tiếng kèn lầu non.

Đậu leo trên đá trăng lồng,

Ánh trời lau lách bãi sông đã dừng.                                                   

Chú thích: 

- mỗi y 每依: thường theo, vẫn dựa vào, cứ theo, hễ nương dựa vào...

hư 虛trống rỗng, uổng phí, giả tạo, vắng lặng....

- bát nguyệt tra 八月槎tra là chiếc bè .Bè đi tám tháng, do chuyện Trương Khiên đời Hán Vũ đế nhà Tây Hán đóng bè theo lệnh vua đi tìm nguồn sông Hoàng mất tám tháng nhưng không tìm ra .Khiên là nhà thám hiểm ,nhà ngoại giao có công lớn giúp nhà Hán mở đường để giao tiếp với các nước phiá tây (Tây vực) 

- họa tỉnh 畫省: công đường các tỉnh thành thời xưa ở T.H. thường có nhiều họa tiết, tranh vẽ...v.v... trang hoàng nơi làm việc. Đây chỉ công sở, công đường của các quan... 

- vi 違: tránh né, làm trái, chia tách, bế tắc... 

- phục chẩm 伏枕: nằm xuống, nép người trên chiếc gối chỉ việc nghỉ ngơi, đi ngủ.

- sơn lâu 山樓: lầu cao trên núi, đồn canh, đài gác giặc vùng núi biên ải.

- phấn điệp 粉堞:  bức tường thấp và ngắn trên thành để quan sát phía ngoài (điệp) bị bong tróc cũ kỹ có nhiều bụi phấn của tường.

- bi già 悲笳: già: kèn thổi cuốn bằng lá. Đây chỉ tiếng kèn đồn lính ai oán, đau thương.

- thỉnh khan 請看: hãy nhìn xem, xin mời ngắm xem... 

- đằng la 藤蘿: cây đậu leo có hoa màu tím mọc hoang.

- dĩ ánh 已映: dĩ: ngưng, dừng lại, thôi, lui lại, xong xuôi... Ánh sáng mặt trời đã dừng lại...

- địch 荻: một loài hoa của lau sậy tương tự như hoa bông lau (lô). Gọi chung theo cách dân gian là lau lách...     

** Đỗ Phủ 杜甫 (712-770) tự Tử Mỹ 子美, hiệu Thảo Đường 草堂, Thiếu Lăng dã lão 少陵野老, người đời sau gọi là Đỗ Thiếu Lăng, Đỗ Lăng tẩu, Đỗ công bộ hay còn gọi là Lão Đỗ để phân biệt với Tiểu Đỗ là Đỗ Mục. Ông sinh ra và lớn lên trong một gia đình quan lại lâu đời ở huyện Củng, nay thuộc tỉnh Hà Nam. Ông nội là Đỗ Thẩm Ngôn, một nhà thơ nổi tiếng thời Sơ Đường. Cha là Đỗ Nhàn, có làm quan.....

Dương Anh Sơn


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét