Thứ Bảy, 22 tháng 1, 2022

Thơ Lý Bạch - Bài 42, 43, 44

 


THƠ LÝ BẠCH - BÀI 42, 43, 44
Thầy Dương Anh Sơn 

BÀI 42 

THU HÁ KINH MÔN                                              秋下荊門 

Sương lạc Kinh Môn, giang thụ không,                     霜落荊門江樹空

Bố phàm vô dạng quải thu phong.                             布帆無恙掛秋風。 

Thử hành bất vị Lư ngư khoái,                                  此行不為鱸魚膾, 

Tự ái danh sơn nhập Diệm trung.                       自愛名山入剡中。

Lý Bạch                                                                      李白   

Dịch nghĩa: 

Xuống Kinh Môn vào mùa thu. 

Sương rơi xuống Kinh Môn với dòng sông và cây cối trơ trọi, vắng tăm. Cánh buồm vải treo hờ hững trong gió thu. Chuyến đi này không vì món chả cá ở sông Lư, bởi yêu mến tiếng tăm của núi Diệm nên vào trong đó thôi! 

Tạm chuyển lục bát: 

XUỐNG KINH MÔN VÀO MÙA THU 

Kinh Môn sương tỏa sông trơ,

Treo lên buồm vải hững hờ gió thu.

Đi không vì chả cá Lư,

Yêu vì núi Diệm nên chừ vào trong. 

Chú thích:

- Kinh Môn 荊門: thuộc vùng tây bắc Nghi Đô, Hồ Bắc, Trung Hoa cạnh bên Trường Giang, đối diện núi Hổ Nha bên bờ bắc. Đây là vùng có nhiều núi non hùng vĩ có tiếng như Diệm Sơn.
- không 空: trơ trọi, trống rỗng, vắng tăm, lặng lẽ.....
- vô dạng 無恙: không việc gì, không hề gì, không lo buồn gì ...
- Lư ngư 鱸魚: loài cá thân dẹp, vẩy nhỏ miệng to, lưng màu hơi có sắc xanh, bụng trắng sống ở cửa biển nên mùa hè lội ngược dòng sông vào, mùa đông quay trở ra cửa biển. Cá Lư vùng Kinh Môn có tiếng thơm ngon khi làm chả.
- khoái 膾: thịt heo hay cá cắt ra bằm nhỏ để làm chả, nem...
 

BÀI 43

CỔ PHONG (Kỳ nhị)                                                          (其二)     

Thiềm thừ bạc Thái Thanh,                                                 蟾蜍薄太清,

Thực thử Dao Đài nguyệt.                                                   蝕此瑤臺月。

Viên quang khuy trung thiên,                                              圓光虧中天,

Kim phách toại luân một.                                                    金魄遂淪沒。 

Đế đông nhập Tử Vi,                                                           螮蝀入紫微,

Đại minh di triều huy.                                                         大明夷朝暉。

Phù vân cách lưỡng diệu,                                                    浮雲隔兩曜,

Vạn tượng hôn âm phi.                                                        萬象昏陰霏。

Tiêu tiêu Trường Môn cung,                                               蕭蕭長門宮,

Tích thị kim dĩ phi.                                                              昔是今已非。

Quế đố hoa bất thực,                                                            桂蠹花不實,

Thiên sương há nghiêm uy.                                                 天霜下嚴威。

Trầm thán chung vĩnh tịch,                                                  沈嘆終永夕, 

Cảm ngã di triêm y.                                                             感我涕沾衣。 

Lý Bạch                                                                               李白


Dịch nghĩa:

Cổ phong (bài hai).

Mặt trăng đã che khuất cung Thái Thanh, ánh trăng nơi cung Dao Đài cũng bị nuốt dần. Vòng ánh sáng tròn bị khuyết giữa trời. Vùng tối màu vàng trên mặt trăng dần dần phai nhạt mất đi.(c.1-4)

Cầu vồng nhập vào cung Tử Vi. Ánh sáng rực rỡ rộng lớn phô bày khi gặp những tia nắng mặt trời. Đám mây nổi chia tách hai vầng sáng của mặt trăng và mặt trời. Muôn hình dạng( của muôn vật) nhạt nhòa mờ tối theo dáng mây trôi. (c.5-9)

Cơn gió lạnh hiu hắt thổi ở cung Trường Môn, bây giờ đã không còn như xưa nữa! Con sâu của cây quế làm cho hoa không đậu thành hạt được! Sương trời tỏa xuống nhanh chóng mạnh mẽ.

Tiếng than cuối cùng đã lắng xuống khi vào đêm dài. Ta thương cảm khiến cho nước mắt làm ướt đẫm chiếc áo. (c.13-14) 

Tạm chuyển lục bát: 

CỔ PHONG (bài hai) 

Thái Thanh che bởi thiềm thừ,

Trăng Dao Đài bị bóng mờ nuốt trôi.

Hao gầy vòng sáng giữa trời,

Vầng trăng mờ tối phôi phai mất dần.

Vào Tử Vi ,ánh cầu vồng,

Sáng bày rực rỡ gặp trong ánh trời. 

Hai vầng sáng ,cách mây trôi.

Dáng mây muôn vẻ khơi vơi tối mờ.

Trường Môn gió lạnh vật vờ,

Xưa kia khác với bây giờ đó thôi!

Sâu hoa quế ,chẳng hạt rồi!

Tỏa nhanh ào ạt sương trời xuống đây.

Tiếng than trầm lắng đêm dài,

Cảm thương, mắt đẫm lệ đầy áo ta.   

 Chú thích:
- cổ phong 古風: thơ cổ phong là một thể thơ có từ trước thời Đường còn được gọi là cổ thi () hay cổ thể (古体). Tuy nhiên, các loại thơ làm trong thời thịnh hành thơ Đường luật và về sau không theo luật thơ Đường đều được xem là cổ thi bao gồm các loại thơ tam ngôn, tứ ngôn ,ngũ ngôn ,lục ngôn ,thất ngôn... v.v... không theo niêm luật hay hạn chế số câu như Đường luật. Thơ cổ phong có thể độc vận  hay liên vận cho dễ đọc theo luật bằng trắc.

Nhìn chung, thơ cổ phong mang tinh thần phóng khoáng, tự do, tránh gò bó nên đề tài diễn đạt rộng rãi, bao quát hơn nhiều so với thơ Đường luật....

- thiềm thừ 蟾蜍: con cóc; đây chỉ mặt trăng có chấm đen tương truyền là con cóc tía trên cung Hằng; chuyện cổ tích cũng nói là trên cung trăng ngoài con cóc tía còn có thỏ ngọc nữa.
- bạc 薄: che lấp, rậm rạp, mỏng manh, rèm che, bám vào, dính, giảm bớt...
- Thái Thanh 太清: một trong ba cung là nơi ở của các tiên nhân. Phái đạo gia cho là trên trời có ba cung là Ngọc Thanh (nơi ở của thánh nhân), Thượng Thanh (nơi ở của các chân nhân) và Thái Thanh (của các vị tiên).
- thực 蝕: nuốt trôi, che khuất (như nhật thực, nguyệt thực), ăn mòn ,đục khoét, hư hỏng, hao hụt...
- Dao Đài 瑤臺: nơi ở của Tây Vương Mẫu và các tiên nữ.
- khuy 虧: thiếu, khuyết, giảm bớt, hao tổn, phụ lòng, yếu kém...
- phách 魄: vùng tối trên mặt trăng, ánh trăng chưa đầy đặn vào những ngày đầu của tuần trăng, hồn vía...
- toại 遂: lần lữa, dần dà, dở dang, tiến lên, hết, thỏa thích, thỏa chí...
- luân 淪: chìm đắm, mất, vướng vít, làn sóng nhỏ...
- đế đông 螮蝀: cầu vồng.
- Tử Vi 紫微: tên một cung trên trời theo đạo gia.
- di 夷: mọi rợ (man di: ách gọi khinh bỉ, miệt thị của người Trung Hoa xưa đối với các bộ tộc chung quanh), bày biện, bọn, nhóm, công bằng, giết hết (tru di)...
- triều 朝: gặp gỡ, hội họp, triều đình. Một âm là triêu: buổi sớm mai, ban mai.
- lưỡng diệu 兩曜: ánh sáng của mặt trời và mặt trăng.
- vạn tượng 萬  象: muôn vạn trạng thái, dáng vẻ của vạn vật
- hôn 昏: nhá nhem tối, tối mờ, lễ cưới gả. Tục lệ xưa bên T.H thường tổ chức lễ cưới đón dâu vào lúc hoàng hôn.
- phi 霏: dáng mây trôi, mưa lất phất, phất phơ, lả tả...
- tiêu tiêu 蕭蕭: gió se sắt, lạnh lùng, gió thổi hiu hắt...
- Trường Môn cung 長門宮: cung Trường Môn do Hán Cao Tổ cho xây, sau còn có tên là Trường Tín hay Trường Lạc.Trần hoàng hậu tức Trần A Kiều vốn được vua Hán Vũ đế sủng ái phong hoàng hậu, nhưng sau khi có người cung nữ đẹp là Vệ Tử Phu, bà hay ghen nên bị vua đưa ra cung Trường Môn. Nghe nói Tư Mã Tương Như là người giỏi thơ phú nên mang trăm cân vàng nhờ ông làm bài Trường Môn Phú 長門賦 dâng lên vua. Lời dẫn trong Văn tuyển nói sau khi đọc bài phú này,vua cảm động; bà lại được vua yêu mến trở lại, nhưng trên thực tế Hán Vũ Đế chỉ tha thứ cho bà chứ không còn sủng ái bà như trước nữa.
- thực 實: hạt trái cây, trái cây, sự thật, đúng thật, chân thành, chính xác.
- chung終: sau cùng, hết, chết, cuối cùng...
- trầm 沈: chìm đắm, lắng đọng, thâm trầm...
- di 涕: nước mắt, nước mũi.
 

BÀI 44

CỔ PHONG (Kỳ tam)                                                     
古風(其三
 
Tần hoàng tảo lục hiệp,                                                     
秦皇掃六合,
Hổ thị hà hùng tai.                                                             
虎視何雄哉。
Huy kiếm quyết phù vân,                                                   
揮劍決浮雲,
Chư hầu tận tây lai.                                                          
諸侯盡西來。
Minh đoạn tự thiên khải,                                                    
明斷自天
Đại lược giá quần tài.                                                        
大略駕群才。
Thu binh chú kim nhân,                                                     
收兵鑄金人,
Hàm Cốc chính đông khai.                                                
函谷正東開。
Minh công hội Kê Lĩnh,                                                     
銘功會稽嶺,
Sính vọng Lang Nha đài.                                                   
騁望琅琊臺。
Hình đồ thất thập vạn,                                                        
刑徒七十萬,
Khởi thổ Li Sơn ôi.                                                            
起土驪山隈。
Thượng thái bất tử dược,                                                    
尚采不死葯,
Mang nhiên sử tâm ai.                                                       
茫然使心哀。
Liên nỗ xạ hải ngư,                                                             
連弩射海魚,
Trường kình chính thôi ngôi.                                             
長鯨正崔嵬
Ngạch tỵ tượng Ngũ Nhạc,                                                 
額鼻象五岳,
Dương ba phún vân lôi.                                                     
揚波噴雲雷。
Kỳ liệp tế thanh thiên,                                                        
鰭鬣蔽青天,
Hà do đổ Bồng Lai.                                                           
何由睹蓬萊。
Từ thị tải Tần nữ,                                                                
徐市載秦女,
Lâu thuyền kỷ thì hồi.                                                        
樓船幾時迴。
Đãn kiến Cam Tuyền hạ,                                                    
但見甘泉下,
Kim quan táng hàn hôi.                                                     
金棺葬寒灰。
Lý Bạch                                                                             
李白 

Dịch nghĩa:

Cổ phong (bài 3)

Vua nhà Tần quét sạch sáu nước họp nhau (hợp tung) đánh Tần. Nhìn kỹ xem loài cọp kia sao hùng mạnh như thế!? Múa kiếm chém đám mây trôi nổi. Các nước chư hầu ở tận phía tây đến. Tự mình quyết đoán rõ ràng là do trời cho biết. Mưu lược lớn sẽ chế ngự những kẻ có tài năng. Thu quân lính về cho đúc người bằng vàng, rồi từ Hàm Cốc mở sang hướng chính phía đông. (c. 1-8)

Họp nhau lại ghi nhớ công lao tại Kê Lĩnh. Nhìn thẳng về phía đài Lang Nha. Bảy mươi vạn người phải chịu hình phạt đi đày bắt đầu từ vùng đất ven khúc quanh ngọn núi Li (Hái thuốc "bất tử" (Sống mãi, mãi còn), lòng dạ chán nản, đau buồn! Rồi tập họp cung nỏ để bắn cá voi to lớn như ngọn núi ở biển, (cá) có trán và mũi dáng vẻ (đồ sộ và hùng vĩ) như núi Ngũ Nhạc. Sóng bốc lên cao, lại phun nước như mây có sấm sét. Vây và râu cá che khuất cả bầu trời xanh! (c .9-19)

Làm sao để nhìn thấy cõi Bồng Lai? Xe chở những cô gái Tần chậm rãi đi qua phố thị .Chiếc thuyền có lầu khi nào sẽ quay trở lại? Chỉ thấy bên dưới Cam Tuyền chiếc hòm màu vàng chôn vùi tro tàn lạnh lẽo. (c .20-24) 

Tạm chuyển lục bát:

CỔ PHONG (bài ba) 

Dẹp tan sáu nước: vua Tần,
Sao loài cọp lại mạnh hăng thế này?!
Mây trôi quyết chém: kiếm bay,

Chư hầu ở tận phía tây đến rồi,
Đoán cho sáng rõ: do trời!
Dùng người tài giỏi nhờ nơi mưu thần.
Đúc người vàng lúc thâu quân,

Mở ra Hàm Cốc phía đông thẳng vào!
Ghi công Kê Lĩnh họp nhau,
Lang Nha trông thẳng cho mau đến đài.
Bảy mươi vạn kẻ đi đày,

Li Sơn mở đất chốn này ven non,
Vẫn còn hái thuốc "mãi còn",
Để lòng chán nản sầu buồn đau thương.
Bắn loài cá biển: nỏ buông,

Cá kình to lớn tưởng chừng núi cao,
"Năm non" - mũi trán giống sao!
Phun ra mây sấm, bốc cao sóng ngàn!
 Trời xanh râu vẩy che tràn,

Làm sao để thấy được chăng cõi Bồng?!
Gái Tần dạo phố thong dong,
 Thuyền lầu trở lại trông mong lúc nào?!
Cam Tuyền chỉ thấy dưới nao,
Hòm vàng tro lạnh chôn vào đó thôi!


Chú thích:
- lục hiệp 六合: vào thế kỷ thứ 3 TCN, sáu nước chư hầu là Tề, Sở, Ngụy, Triệu, Yên, Hàn là những nước trở nên vững mạnh ở trung nguyên. Trong khi đó nước Tần ở phía tây cũng trở thành một nước giàu mạnh, đất rộng, quân binh đông đảo nhờ sự cải cách của Thương Ưởng. Tần Huệ vương trọng dụng Trương Nghi là một biện giả chủ trương làm cho sáu nước kia qui phục và tôn nước Tần. Tướng nước Ngụy là Công Tôn Diễn lại đưa ra việc áp dụng kế sách hợp tung sáu nước để đánh Tần nhưng cuối cùng, quân Tần đã đè bẹp quân sáu nước và dần dần đánh tan nhiều chư hầu khác thống nhất Trung Hoa.
- tai 哉: vậy thay, như thế đó, đấy...
- minh đoạn 明斷: phán đoán, xét đoán sáng suốt, rõ ràng...
- thiên khải 天啟: do trời cho biết, do trời định, do trời mở ra báo trước một việc khởi đầu...
- đại lược 大略: mưu lược lớn lao có kết quả quan trọng.
- giá 駕群才: giá: chế ngự, điều khiển xe ngựa, xe vua xuất hành, tiến hành.... Điều khiển,
chế ngự, dùng được những người có tài.
- chú 鑄: đúc đồ vật, tượng hình bằng kim loại...
- Hàm Cốc 函谷: tức cửa ải Hàm Cốc (Hàm Cốc Quan) là một vị trí quan yếu kiểm soát sự qua lại từ trung nguyên nước Trung Hoa xưa đi về phía tây và ngược lại.Cửa ải được xây đắp khoảnh năm 361 TCN ở một khúc quanh của Hoàng Hà. Thời Chiến Quốc, cửa Hàm Cốc được quân Tần bảo vệ nghiêm ngặt để ngăn chặn sáu nước trung nguyên tấn công lên phía tây. Còn với Tần, đây là nơi xuất phát tiến quân đánh các nước trung nguyên. Vì thế nơi đây đã xảy ra nhiều trận đánh khốc liệt trong thời Chiến Quốc.Ngày nay nó thuộc thị xã Linh Bảo, Tam Môn Hiệp, tỉnh Hà Nam, T.H.
- minh 銘: ghi nhớ, ghi công lao, khắc chữ vào bia đá, đồ vật để ghi nhớ...
- Kê Lĩnh 稽嶺: dãy núi ở vùng Cối Kê,
- sính vọng 騁望: nhìn thẳng vào, nhìn dõi theo vội vàng. (sính: phóng thẳng, đi một mạch, ngựa phi chạy ,trôi chảy, rong ruổi, mở rộng...)
- Lang Nha đài 琅琊臺: tên một đài xưa từng được xây trên núi Lang Nha, Hà Bắc, bắc T.H. là một vùng núi hùng vĩ.
- Li Sơn ôi 驪山隈: ôi 隈: là khúc quanh dưới chân núi, ven núi. Đây là chỗ uốn cong của núi Li thuộc vùng đông nam huyện Lâm Đồng, thành phố Tây An, tỉnh Thiểm Tây, T.H. là nơi quân lính lục quốc bị nhà Tần bắt đi đày. Nhiều người khác bị bắt lên các núi non kiếm thuốc "bất tử" hoặc ra biển bắt cá kình (cá voi)...
- mang nhiên 茫然: mịt mờ, mù mịt, không biết gì, chán nản, thất vọng...
- liên nỗ 連弩: kết hợp, liên kết các cây nỏ để cùng bắn một đối tượng nào đó.
- thôi ngôi 崔嵬: cao lớn sừng sửng, cao to ngất ngưỡng...
- Ngũ Nhạc 五岳: là năm ngọn núi nằm theo bốn hướng chính của địa lý và vùng trung tâm của Trung hoa cổ đại. Tung Sơn (嵩山) là ngọn nằm ở trung tâm nằm ở Hà Nam, phía bắc là Hằng Sơn (嵩山) thuộc tỉnh Sơn Tây, phía nam là Hành Sơn(衡山), phía đông là Thái Sơn (泰山) nằm ở Sơn Đông, phía tây là Hoa Sơn (华山) ở vùng Thiểm Tây trong đó ngọn Hoa Sơn là ngọn cao nhất (2155m). Người T.H. xưa cho rằng Ngũ Nhạc là đầu và tứ chi của ông Bàn Cổ, vị thần tạo lập vũ trụ, càn khôn. Họ vẫn thường gọi năm ngọn núi theo phương hướng: Trung Nhạc, Bắc Nhạc, Nam Nhạc, Đông Nhạc, Tây Nhạc. Những ngọn núi này được họ xem là những nơi linh thiêng vì có sự hiện diện của thần thánh.
- dương ba 揚波: sóng bốc lên, sóng cuốn lên cao...

- kỳ liệp 鰭鬣: vây cá và râu cá. (liệp: râu cá, lông bờm thú vật, vây cá...)

- Bồng Lai 蓬萊: theo Sơn Hải kinh, núi Bồng Lai nằm trên một hòn đảo cùng tên gọi ở về phía đông của Bột Hải (tên gọi vùng biển đông bắc biển Đông, giáp với các quần đảo Nhật Bản) cùng với 4 đảo khác trên đó tương truyền có các vị tiên thoát tục sinh sống, gọi là Phương Trượng (方丈), Doanh Châu (瀛州), Đại Dư (岱輿) và Viên Kiều (員嬌). Đây cũng là một thành phố có tên gọi là Bồng Lai ở Sơn Đông,T.H. Nói chung,người T.H xem Bồng Lai như là một cõi sinh sống rất tốt đẹp để mơ ước...
- từ thị 徐市: thong thả trong phố chợ, chậm rãi, đi chậm qua phố chợ...
- Cam Tuyền 甘泉: xem chú thích Bài 25 (Tái hạ khúc kỳ lục) ở trên.
- hôi 灰: xem CT Bài 39 (Trường Can hành kỳ nhất) ở trước .

Saigon, th. 8/2017

Dương Anh Sơn 

(Lần đến: Bài 45, 46 và 47) 


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét