NHỮNG MÙA XUÂN THUỞ ẤY
Phạm Tín An Ninh
Khi mới lớn lên, tôi chỉ biết quê tôi là một vùng thôn dã an bình,
hiền hòa, xinh đẹp, biển nằm không xa dãy trường sơn. Đi giữa những cánh đồng
lúa chín vàng, nằm dọc bên triền núi, mà tai văng vẳng âm thanh của những ngọn
sóng vỗ bờ. Cả dòng họ ông nội tôi chiếm lĩnh vùng nông thôn, và dòng tộc phía
bà nội tôi trấn cứ vùng bờ biển. Từ quê ông nội đến quê bà nội, lúc còn nhỏ,
tôi thường chạy bộ không đến nửa tiếng đồng hồ. Cả làng gần như đều là bà
con dòng tộc xa gần. Mỗi lần có giỗ kỵ, bọn con cháu như tôi phải đi mời khắp
cả làng. Ngày Tết phải đi chúc Tết ông bà, cô bác, cả hai ngày chưa đủ. Đám hậu
sinh như bọn tôi, mang dòng máu của cả ruộng đồng, sông suối trộn lẫn với nước
mặn biển khơi. Có lẽ nhờ đó mà tâm hồn rạt rào tình cảm. Những ngày mới lớn,
bọn tôi thường được ông bà nội, các cô chú và nhất là ba tôi, ngồi giải thích,
để rồi cuối cùng gần như mọi người trong làng, ai cũng có một vai vế nào đó để
biết mà thưa gởi. Đến tuổi yêu đương, trai gái phải đi tìm đối tượng ở xa, chứ
trong làng với nhau là ít nhiều gì cũng “cùng huyết thống”. Vì vậy con gái ở
quê tôi đều trở thành những con chim đa đa, “không lấy chồng gần mà phải đi lấy
chồng xa”. Tuy có chút phiền hà, nhưng cũng phải công nhận cái nếp nhà của ông
bà ngày xưa, sao mà hay quá đỗi.
Cũng chính sự liên hệ dòng tộc này, nên làng tôi có thể là một
điển hình cho những tình huống bi thương trong cuộc chiến ba mươi năm, từ lúc
có phong trào Việt Minh cho đến khi kết thúc cảnh huynh đệ tương tàn, trong
anh em họ hàng, kẻ ở bên này người ở bên kia. Một cuộc chiến kỳ
quái và có lẽ bi tráng nhất trong lịch sử chiến tranh nhân loại.
Đám trẻ trạc tuổi tôi cũng hơn hai mươi đứa. Không hiểu vì sao lúc
ấy chỉ toàn là con trai chơi chung với nhau, còn con gái có vài ba đứa, nhưng
chỉ ở trong nhà. Do vai vế trong họ, có những thằng lớn tuổi phải gọi những ông
nhỏ tuổi hơn mình bằng anh, bằng chú. Đôi khi đánh bi, đánh vụ hay đá banh, mấy
thằng lớn nhưng vai em, vai cháu bị mấy ông anh, ông chú nhỏ tuổi hơn chơi hiếp,
cũng đành phải hậm hực, chỉ biết chạy về mách ông bà. Khi lớn lên một chút, đám
bọn tôi cùng đi học trường làng, rồi sang trường huyện. Ngày nghỉ thì tập trung
ra cái sân làng để thi thố mọi thứ tài năng, từ u mọi, vật lộn, đá banh. Có khi
kéo nhau xuống biển, tập bơi. Những thằng sống ven biển lại có dịp làm thầy dạy
cho mấy thằng trên ruộng đồng tập bơi, tập lặn, và cả chèo ghe, lưới cá nữa.
Vui nhất là những dịp Tết. Tất cả đều được mặc áo mới, trong túi
thằng nào cũng có chút tiền do ông bà cha mẹ lì xì, kéo nhau đi xem bài
chòi, đánh bầu cua cá cọp, và chung tiền mua pháo đốt làm náo động cả xóm
làng. Thời ấy đất nước thanh bình, gia đình nào cũng khấm khá, nên đám trẻ bọn
tôi sống với nhau trong chan hòa hạnh phúc. Tết đến, là dịp để tận hưởng mọi niềm
vui nao nức của tuổi thơ và lúc nào cũng thấy cả một bầu trời xanh bao la mở ra
trước mặt.
Cuối năm 1954, khi khắp miền Nam tưng bừng hát bài ca “Suy Tôn Ngô
Thủ Tướng” cũng là lúc rộn rịp đón hơn một triệu người từ miền Bắc di cư chạy
trốn chế độ Cộng sản, sau Hiệp Định Genève chia đôi đất nước. Cái làng
quê nhỏ bé xa xôi nhưng trù phú của tôi cũng đón tiếp hai gia đình. Nhưng lại
là hai gia đình có nhiều khác biệt, mà lúc ấy còn nhỏ, nên bọn tôi chẳng hề
quan tâm hay thắc mắc điều gì.
Gia đình ông Khanh, nói rặt giọng Bắc Kỳ. Gồm có ông và hai thằng
con trai tên Vũ và tên Hải. Sau này thằng Vũ vào học cùng lớp Nhì với tôi. Nhờ
vậy, tôi biết nó gốc Hải Phòng, mẹ nó mất trước đó 3 năm. Bố nó khá giàu chuyên
nghề nấu rượu và làm mắm. Ông Khanh không hề có bà con, quen biết ai ở đây.
Nghe nói làng này trù phú, ruộng đồng nằm sát bên bờ biển, nên ông nghĩ đây
chính là mảnh đất thuận lợi để cho ông tái nghiệp.
Gia đình bà Thọ, nói rặt giọng Bình Định, Gồm có bà và hai người
con gái. Con Thi và con Tứ. Điều khác biệt hơn, bà Thọ là cháu của ông Tổng
Phương, một người giàu có trong làng và tất nhiên cũng có bà con xa gần gì đó
với đám bọn tôi. Cha tôi bảo tôi gọi bà là Cô Bốn, vai em của cha tôi. Con Thi
cũng vào học chung lớp Nhì với tôi và thằng Vũ, còn cô em thì học sau hai lớp,
cùng với em thằng Vũ. Nó chỉ nói ba nó bị Tây bắn chết trong chiến tranh. Lúc
ấy tôi không hiểu tại sao gia đình con Thi di cư, nhưng không nói tiếng Bắc mà
lại nói giọng Bình Định. Ba tôi giải thích là họ không phải đi từ miền Bắc mà từ
Liên Khu Năm. Tôi cũng chẳng biết Liên Khu Năm là gì, chỉ nghe ông bảo ở vùng
Nam-Ngãi-Bình-Phú gì đó, thế thôi. Hơn nữa đám con nít bọn tôi cũng chẳng quan
tâm đến chuyện ấy làm gì.
Từ ngày trong làng có thêm hai gia đình mới đến định cư, đám trẻ
bọn tôi rộn ràng và vui hẳn lên. Anh em thằng Vũ nhập bọn, bày cho bọn tôi rất
nhiều trò chơi mới lạ từ miền Bắc mang vào. Lần đầu tiên nghe giọng Bắc, bọn
tôi tưởng cứ như tiếng chim kêu, có nhiều chữ không hiểu nghĩa gì, bắt hai
thằng phải giải thích. Nghe quen rồi, thì lại thấy giọng Bắc hay hay và bắt nó
đọc để học chính tả. Hai anh em đều lễ phép, hiền lành và tốt bụng nên bọn tôi
cũng dễ thân. Còn chị em con Thi thì đứa nào cũng xinh xắn dễ thương, khác hẳn
với đám con gái trong làng. Hai chị em tự nhiên nhập bọn và chuyên mang kẹo đến
chia cho đám con trai để làm quen. Bọn tôi tha hồ chọc ghẹo, nhạo tiếng Bình
Định là tiếng Nẫu, và hai đứa nó là dân Củ Mì, nhưng hai chị em cũng tít mắt
cười theo mà không hề biết giận.
Phải công nhận là con Thi xinh gái thật. Da trắng hồng, mắt to,
mũi cao và miệng cười có hai má lúm đồng tiền. Còn có thêm mái tóc thề đen óng
nữa. Trong đám bọn tôi nhiều thằng mê con Thi. Và dường như từ khi con Thi xuất
hiện thì đám con trai làng tôi mới tập tễnh học yêu đương và biết trồng cả cây
si. Ông bà cha mẹ thằng nào cũng đã đoán trước sự tình nên đều răn đe con
cháu “đám tụi bay với chị em con Thi cùng là người trong họ trong hàng,
còn con nít chớ có bày đặt chuyện tầm bậy tầm bạ, nghe chưa!”
Không biết có bao nhiều đứa yêu thầm nhớ trộm, để dù phải vâng lời
người lớn, mà trong lòng ấm ức không chắc thật là mình có bà con dây dưa rễ má
gì với con Thi. Còn con Thi, dường như chẳng phải lòng, để ý thằng nào. Với ai
nó cũng thân tình vui vẻ, nên cuối cùng cũng trở lại bình thường, không có
không khí chiến tranh.
Cũng không biết là hai gia đình này đến đây có mang theo gia tài
gì không, nhưng chỉ sau một thời gian ngắn là trở nên giàu có. Ông Khanh thì
mua lại một ngôi nhà lớn vùng biển, mở một xưởng làm mắm, với hơn mười người
giúp việc. Bà Thọ thì mở một cái quán bán hàng tạp hóa khá lớn ngay ở ngã ba
làng, sau khi cất lên một ngôi nhà ngói thật rộng rãi khang trang. Trước quán
là một cái sân gạch khá lớn có mái che, được đặt một cái bàn ping-pong và mấy
cái máy chơi đá banh. Vì vậy trở thành nơi tập trung của đám nhóc bọn tôi trong
những ngày nghỉ học. Khi nào hai chị em con Thi trông quán, bọn tôi không phải
trả tiền mà có khi còn được thêm bánh kẹo nữa.
Tết năm ấy, có lẽ là cái Tết đầu tiên vui vẻ và thích thú nhất của
đám bọn tôi. Không phải vì có một gánh hát rong nổi danh về diễn ở đình làng,
mà vì lần đầu tiên bọn tôi cùng nhau lập một gian hàng trò chơi và lô-tô với
tiền của chị em con Thi, và tài quảng cáo điều khiển và hô lô-tô thật tài ba
của thằng Vũ. Bằng cái giọng Bắc Kỳ lạ lẫm mà vô cùng hấp dẫn. Không những chỉ
trai tráng trong làng, mà từ các làng khác kéo sang, đông đảo nô nức, làm các
ông bà chức sắc trong làng ai cũng hoan nghênh.
Năm sau, khi bọn tôi vừa mới lên lớp Nhất, thì được tham gia vào
việc cổ động cho cuộc Trưng Cầu Dân Ý, truất phế Quốc Trưởng Bảo Đại để bầu Thủ
Tướng Ngô Đình Diệm lên làm Tổng Thống, khai sinh chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Lúc
ấy chưa biết gì về chính trị, nhưng đứa nào cũng thấy nao nức trong lòng.
Ai cũng thuộc lòng câu “Phiếu xanh ta bỏ vô bì, phiếu đỏ Bảo Đại ta thì vất đi”
để hô vang khi cô thầy giáo dẫn đi ngoài đường. Tối đến, bọn tôi được cấm trại
ngay trên sân trường, tổ chức đốt lửa, văn nghệ. Thầy hiệu trưởng soạn vở kịch
thơ Hai Bà Trưng. Đám cùng làng với tôi chiếm đa số trong lớp, nên được phép
chọn các vai diễn. Hai chị em con Thi đóng vai Trưng Trắc, Trưng Nhị, thằng Vũ
đóng vai Thi Sách. Chẳng đứa nào chịu làm Tô Định. Cuối cùng phải tổ chức bốc
thăm. Một thằng ở làng khác bốc trúng, nhưng không ngờ nó lại đóng hay nhất.
Nghĩ là chỉ còn gần nhau trong năm này thôi, mùa hè sang năm thì
mỗi người một ngả, vì muốn học trung học phải vào tận thành phố, cách xa làng
quê hơn sáu mươi cây số, cả bọn thường quây quần bên nhau trong những dịp cuối
tuần. Có điều bây giờ ít đùa giỡn nghịch ngợm hơn xưa, vì dường như đứa nào
cũng chuẩn bị để tập làm người lớn. Riêng Thi càng lớn lại càng đẹp thêm ra,
thân hình nẩy nở hấp dẫn ở cái tuổi dậy thì. Nhiều thằng càng mê mẫn, nhưng vì
cái nếp họ hàng đành phải ngậm đắng nuốt cay. Chỉ có thằng Vũ Bắc Kỳ là đứa duy
nhất đứng ngoài vòng cấm kỵ và cũng rất xứng đôi. Nhưng nó lại tỏ ra rất bình
thường với con Thi, đùa giỡn như hai thằng con trai, và tốt với mọi người, nên
cũng chẳng có thằng nào nghi ngờ, ghen tức.
Cái Tết năm đó vì nghĩ là cơ hội cuối cùng, nên ngoài các gian
hàng trò chơi như năm trước, bọn tôi còn đứng ra nhận phần văn nghệ. Hầu hết
những mầm non trong cả huyện đều được mời tham dự, có cả một ban giám khảo chọn
những tài năng, để các chức sắc trong xã trong làng trao giải thưởng. Bọn
tôi được cả ông bố của Vũ và mẹ của Thi giúp tiền bạc, ông anh họ của tôi làm ở
Chi Thông Tin giúp phần âm thanh, một máy phát điện và cố vấn cho việc tổ
chức. Thằng Vũ và con Thi được chọn làm trưởng và phó nhóm kiêm luôn giới thiệu
chương trình. Tôi được chọn viết bài sớ táo quân và đọc mở màn đêm văn nghệ. Bà
con các nơi kéo về tham dự đông đảo chưa từng thấy ở ngôi đình làng này từ mấy
chục năm nay. Không ngờ bọn tôi lại tổ chức được một cái Tết đình đám như thế.
Được các cụ trong làng khen thưởng, ngợi ca vì đã làm nở mặt xóm làng. Nhưng
người được chú ý và được hâm mộ nhất hôm ấy là con Thi, không phải vì hát hay
múa giỏi mà vì nhan sắc. Bao nhiêu cặp mắt đều dồn về Thi, mê mẩn, nhất là đám
con trai, thanh niên lạ từ các nơi kéo đến. Cả đám bọn tôi, ai cũng sợ mất con
Thi, đứa nào cũng nhân danh bà con anh em để bảo vệ, nhưng thực ra là để giữ
Thi, không cho phải lòng bất cứ gã trai nào.
Đến Hè, sau khi có bằng Tiểu Học, đứa nào cha mẹ khá giả thì được
cho vào thành phố tiếp tục học trung học, đứa nào nhà nghèo thì đi học đủ thứ
nghề hoặc theo nghiệp nhà nông, nhà biển của cha mẹ đã nối tiếp từ bao nhiêu
đời trước. Trong số 16 đứa cùng lớp trong làng, chỉ có 10 thằng được đi làm sĩ
tử, vào thành phố thi vào lớp đệ thất trường công lập. Trong số đó có tôi, con
Thi và thằng Vũ.
Những đứa được tiếp tục đi học góp chung tiền, nhưng chỉ bằng nửa
số tiền con Thi bỏ ra, tổ chức buổi họp mặt tại nhà Thi trước khi mỗi người mỗi
ngả. Buổi chia tay buồn vui lẫn lộn. Tội nghiệp cho những thằng phải nghỉ học.
Lúc ấy bọn tôi nghĩ đến tương lai thì ít mà nghĩ tới chuyện phải xa cách nhau
thì nhiều.
Bọn tôi rủ nhau cùng đi lên thành phố chung một chuyến xe đò của
bác Vạn Lợi. Ông là vai ông, bác, chú của đám bọn tôi, nên ông không lấy tiền
mà còn cho mỗi đứa một ổ bánh mì nóng. Khi ấy cả tỉnh chỉ có duy nhất một
trường trung học công lập, nên rất hạn chế học sinh, vì vậy trong mười đứa bọn
tôi chỉ có năm đứa đậu. Trong số đó không có tôi. Còn thằng Vũ và con Thi
thì đậu hạng cao. Đám thi rớt rủ nhau xin vào các trường tư thục. Với tính háo
thắng và cũng để thỏa mãn tự ái, suốt mùa hè tôi học lớp luyện Toán của một ông
chú vừa mới đậu Trung Học, và nhờ cha tôi kèm Pháp văn, để sau hè vào học lớp
đệ lục thay vì đệ thất. Nhờ vậy mà tôi lại đậu Trung học Đệ Nhất Cấp rồi xin
vào đệ tam trường công trước các bạn khác một năm.
Những năm trung học, đám bọn tôi chỉ thỉnh thoảng gặp nhau ở thành
phố, và cũng một vài lần ở quê, nhưng không đông đủ như lúc xưa. Có vài thằng
không còn theo học đã lập gia đình sớm và lo sinh kế. Sau trung học, con Thi
đậu vào Sư phạm Qui Nhơn, Vũ vào Đại học Khoa học, còn tôi thích đời quân ngũ
nên xin vào lính, ra trường được bổ nhậm về một đơn vị tác chiến ở Cao Nguyên.
Thời gian này, chiến tranh trở nên ác liệt, tôi theo đơn vị và ngày tháng miệt
mài với súng đạn, sống chết cùng đồng đội trên khắp các chiến trường lửa đạn.
Ba năm sau tôi nghe tin Vũ cũng nhập ngũ, và nhờ có vóc dáng cao lớn, được chọn
vào binh chủng Nhảy Dù, còn Thi thì đã là cô giáo đang dạy một trường nào đó ở
Phan Rang. Trước Giáng Sinh năm 1971, tôi có ghé thăm Thi một lần khi cùng đơn
vị di chuyển từ bản doanh Sông Mao lên Đà Lạt để giữ an ninh cho buổi lễ ra
trường của một Khóa Võ Bị. Trường Thi dạy nằm ngay bên quốc lộ, nên tôi cho
đoàn xe dừng lại trước cổng trường, vào tìm Thi. Bất ngờ gặp nhau, Thi nhìn tôi
ngạc nhiên và chạy tới ôm lấy tôi mừng rỡ. Cô giáo Thi vẫn dễ thương, thân tình
vui vẻ như dạo nào, và có lẽ là cô giáo đẹp nhất ở đây. Tôi có hỏi về Vũ, Thi
cho biết có vài lần gặp Vũ và hai người vẫn thư từ qua lại thăm nhau. Nhưng từ
khi Vũ theo đơn vị ra Vùng I, thì không nhận được thư, có lẽ bận hành quân. Tôi
cũng hỏi thăm về cô bốn Thọ và Tứ, là mẹ và em gái của Thi. Tôi tròn mắt ngạc
nhiên khi Thi nhỏ giọng:
– Má của Thi đã tái giá. Bà lấy bác Khanh, bố anh Vũ đó!
Tôi vỗ tay chúc mừng.
– Ông bà cũng xứng đôi vừa lứa, chắc cả Thi và thằng Vũ cũng vui
Im lặng gây lát, Thi hỏi tôi:
- Còn con Tứ, em Thi cũng đã lấy
chồng rồi. Anh biết nó lấy ai không?
Tôi suy nghĩ rồi lắc đầu. Thi đập nhẹ vào vai tôi, với một chút
bẽn lẽn:
– Nó làm đám cưới với thằng Hải, em của Vũ, sau hai ông bà già mấy
tháng.
Tôi thật sự bất ngờ, chỉ biết mở tròn mắt nhìn Thi. Rồi bất giác
tôi nói với Thi mà không hề suy nghĩ:
– Vậy thì sao Thi không tới luôn với thằng Vũ đi. Hai bạn đều tài
hoa và hai gia đình lại đề huề. Hơn nữa đám con trai trong làng đều bà con với
Thi hết ráo, ngoại trừ thằng Vũ là duy nhất ngoại tộc! Tôi ủng hộ hai tay!
Thi cười, lắc đầu:
– Cả một thời lớn lên thân thiết như anh em chứ có khác gì đâu. Dị
lắm!
Tôi đùa:
– Nếu không thì phải kiếm ông giáo hay ông quan nào ngon lành mà
cho tôi ăn đám cưới đi chứ. Đẹp cho nên kén chứ gì, phải nhớ là hoa chỉ có một
thời để nở thôi đó?
Thi cười:
– Thời này chắc chỉ có lính. Mà mấy ông lính thì đa tình và đào
hoa quá nên chẳng biết dám tin ai mà lấy.
Tôi ôm vai Thi thân mật:
– Vậy để tớ làm mai cho mấy thằng bạn đẹp trai oai hùng và chung
thủy nghe, chứ để Thi lấy phải một thằng gà chết trời ơi nào thì tiếc của lắm.
Bọn tôi vẫn vui vẻ thân mật như ngày nào. Khi chia tay, tôi bảo:
– Theo gia phả, thì Thi phải kêu tôi bằng anh. Mà anh đã phán thì
em phải vâng lời, nghe chưa?
Đoàn xe đã chuyển bánh, mà tiếng cười của Thi vẫn như còn đuổi
theo tôi.
Mùa Hè 1972, tôi bị thương tại chiến trường Kontum. Sau khi xuất
viện được hưởng mười ngày phép, tôi trở về quê thăm cha tôi. Lúc này ông đã lớn
tuổi, không còn đi dạy học nữa.. Không ngờ đó là những ngày cuối cùng tôi được
sống bên cha tôi, và nghe ông kể nhiều chuyện về cuộc đời, về họ hàng và cuộc
chiến tranh đang có nguy cơ bất lợi cho miền Nam. Nhờ theo dõi tin tức nên ông
đoan chắc là Mỹ sẽ sớm bỏ rơi VNCH. Suốt buổi, hai cha con bàn thảo về những
giải pháp mà Mỹ sẽ đưa ra để kết thúc chiến tranh. Nhưng không ai nghĩ đến bất
cứ một giải pháp nào bi đát lắm. Ít nhiều gì vẫn còn tin ở sức mạnh của Hoa Kỳ!
Nhân dịp này tôi cũng ghé lại thăm cô bốn Thọ, mẹ của Thi. Bà và
ông Khanh sống ở nhà bà. Cái quán tạp hóa vẫn còn, nhưng hình như không đắt
hàng như lúc xưa, vì bây giờ có thêm mấy cái quán mới mở. Trông ông bà rất hạnh
phúc. Còn vợ chồng Tứ và Hải thì sống ở nhà ông Khanh, dưới biển, nối nghiệp
ông sản xuất nước mắm và tôm khô. Nghe ông Khanh bảo, vợ chồng nó làm ăn có bài
bản hơn ông ngày trước nên cũng khá giả.
Rồi những điều cha tôi nhận định khi bàn thảo với tôi hôm nào về
cuộc chiến, đã diễn tiến và xảy ra đúng như ông dự đoán. Có điều thời gian và
mức độ bi đát thì vượt quá xa, so với ước tính của cả hai cha con tôi, và có lẽ
của tất cả mọi người, ngay cả những ông có quyền hành cao nhất nước. Ngày 11
tháng 3/75 mất Ban Mê Thuột, kéo theo hai cuộc di tản tệ hại, kinh hoàng từ
Pleiku và từ Vùng 1. Không ai ngờ là thành phố Nha Trang yên bình thơ mộng của
tôi bị mất về tay CS chỉ đúng 20 ngày sau Ban Mê Thuột. Và mặc dù với tài năng
của Tướng Lê Minh Đảo và các đơn vị tại tuyến Long Khánh đã can trường, thiện
chiến, ngăn chặn quân CS từ phương Bắc tràn vào, và lực lượng ta phải 1 chống
10 hay 100, nên cũng chỉ cầm chân được hơn mười ngày. Mười ngày làm ngạc nhiên
cả Quốc Hội Hoa Kỳ và gây sự thán phục cho cả thế giới, nhưng cuối cùng miền
Nam cũng đành thất thủ.
Cái kết thúc bi thảm mà trước đó cha tôi và tôi đã mất một buổi
bàn thảo, nhưng không ngờ lại bi thảm đến như thế. Mỹ đã bỏ rơi một đồng minh
mà không có bất cứ một giải pháp nào. Một kết thúc không còn có chút tình
nghĩa, lương tri, và tận cùng thê thảm.
Tôi theo đơn vị từ Cao nguyên Vùng 2 “di tản chiến thuật”về tận
miền Nam, Vùng 3 xa lạ để chống đỡ bảo vệ vòng đai Sài Gòn. Khi cha tôi bị địch
bắt giam ở một hòn đảo ngoài khơi miền Trung, gần quê tôi, thì tôi đang cùng
đơn vị chiến đấu trong cô đơn ở tận Long An, Cần Giuộc. Tôi bàng hoàng khi nghe
một người bạn cùng quê thoát được vào Sài Gòn kể cho tôi nghe chuyên CS chiếm
quê tôi và bắt cha tôi. Khi ông Dương Văn Minh tuyên bố “đầu hàng”, đơn vị tôi
vẫn còn đang nổ súng và một số xác đồng đội chết giờ thứ 25 phải lấp vội trong
vườn nhà dân. Đơn vị tôi tập họp lại lần cuối cùng, ra lệnh phá hủy tất cả vũ
khí, rồi thuê mấy chiếc xe đò chở qua cầu chữ Y, ôm nhau từ biệt. Tôi nghiệp,
mấy anh tài xế chí tình với lính, không nhận lấy đồng bạc nào, nhìn chúng tôi
rưng rưng nước mắt.
Mấy người bạn của tôi ở Sài Gòn đã kiếm được ghe, rủ tôi cùng đi
vượt biển. Bạn tôi bảo bây giờ vẫn còn nhiều cơ hội và hạm đội Mỹ hay Hải Quân
VNCH còn đợi ở ngoài khơi. Lòng dạ tôi đang rối bời, ngổn ngang trăm mối, với
một nỗi chán chường khủng khiếp. Biết là ở lại với bọn cộng sản man rợ này sẽ
là một địa ngục trần gian, nhưng nghĩ còn có biết bao nhiêu người cùng số phận
như mình, và đặc biệt nghĩ tới cha tôi, cả một đời gà trống nuôi con, từ lúc mẹ
tôi vĩnh viễn lìa xa khi tôi mới tròn ba tuổi, tôi không thể đành lòng bỏ ông,
khi ông đang bị giặc cầm tù, không biết sống chết ra sao. Tôi buộc ra trình
diện, lấy giấy chứng nhận, như một tờ thông hành để tìm mọi cách trở về quê.
Quê tôi bị “giải phóng” mới hơn một tháng mà sao đã trở nên lạ
lẫm, điêu tàn. Tôi không còn tìm được nụ cười nào trên môi của những người thân
quen cũ. Ngôi nhà của cha tôi đã bị tịch thu, giờ là Hợp Tác Xã Mua Bán (?).
Tôi về nhà ông bà nội, vắng tanh, bà cô út đang cuốc đất trồng sắn ở phía sau
nhà. Cô tôi đưa tôi vào nhà thờ tự để thắp nhang lạy ông bà. Cô tôi cho biết có
xuống ủy ban quân quản xin giấy đi thăm cha tôi đang bị giam trong trại tù “cải
tạo” Đá Bàn, nhưng họ không cho, bảo phải chờ có thông cáo.
Điều làm tôi hết sức bất ngờ, khi nghe cô út tôi kể là ông chồng
trước của cô bốn Thọ, cha con Thi, vẫn đang còn sống, là một cán bộ cao cấp của
cộng sản, mới từ miền Bắc trở về. Ông đi tập kết từ năm 1954, trước khi sắp xếp
cho vợ con ông rời khỏi vùng tập kết Liên Khu 5 để trở về sống ở quê này. Bây
giờ ông nắm giữ một chức gì lớn lắm trong chính quyển của tỉnh. Tôi bàng hoàng
hơn khi nghe cô tôi kể về cái chết bí ẩn của chú Khanh, cha thằng Vũ, và cũng
là chồng sau này của cô bốn Thọ. Khi nghe tin ông chồng cũ trở về, giờ là một
người cộng sản có chức quyền, bà Thọ nghĩ là ông ta đã biết hết mọi điều, nên
đã cùng hai cô con gái năn nỉ để chú Khanh được đến tạ lỗi, rồi xin tùy ông
quyết định. Ông ta tỏ ra thản nhiên, nói cười vui vẻ. Chú Khanh đến khẩn khoản
van xin ông ta tha lỗi, vì cứ tưởng là ông đã chết, nên mới gá nghĩa với bà Thọ
để hôm sớm có nhau, cùng nuôi con khôn lớn. Giờ ông đã về, xin được trả vợ lại
cho ông, rồi dọn nhà đi nơi khác. Hôm ấy, nhiều người bà con trong xóm tò mò
đến xem. Ông “cách mạng” vui vẻ bắt tay và còn cám ơn chú Khanh đã thay ông
chăm sóc vợ con ông bao nhiêu năm qua, giờ thì hai người cứ xem nhau là bạn. Ai
nấy đều khen ông “cách mạng”, đã hành xử theo kẻ trượng phu. Nhưng chỉ sau đó
một tuần thì người ta tìm thấy xác chú Khanh nằm trên bờ biển vắng, hai tay bị
trói ra đằng sau, và trên đầu có nhiều lỗ đạn.
Bỗng dưng tôi nghĩ đến Vũ và Thi. Cô tôi bảo thằng Vũ thì không ai
biết ở đâu, chết hay còn sống, còn con Thi thì nhờ có cha làm lớn, nên được làm
hiệu trưởng trường huyện kiêm chủ tịch mặt trận gì đó. Lòng tôi bỗng dưng thắt
lại, nghĩ đến những nụ cười, giọng nói của Thi trong lần gặp gỡ cuối cùng, tôi
thấy có gì bẽ bàng, chua xót. Cô tôi gợi ý nên tìm gặp Thi để nhờ nó giúp can
thiệp cho tôi được thăm ba tôi. Tôi chỉ im lặng, lắc đầu.
Và đúng như ước đoán của cô tôi, khi trải qua một quãng đường núi
khó khăn, tôi đến được trại tù Đá Bàn, là một mật khu của cộng sản lúc xưa, xin
được gặp cha tôi, tay cán bộ “trực ban”hỏi căn cước và giấy giới thiệu của
chính quyền địa phương, tôi chìa ra tờ giấy duy nhất, bản chứng nhận “Trình
diện Chính quyền Cách mạng” của UB Quân Quản Sài gòn, và trình bày mong muốn
được gặp cha trước khi đi “học tập cải tạo”, nhưng vẫn bị hắn hằn học chối từ
và còn đe dọa, bảo tôi phải trở về Sài Gòn ngay, vì không có giấy đi đường.
Hơn một năm sau, ba tôi đã chết trong nhà tù này khi tôi đang bị
lưu đày ở một trại tù khác tận vùng Lào Cai, Việt Bắc. Nhưng mãi đến năm năm
sau tôi mới nhận được tin buồn, nhờ suy đoán từ những dòng thư của cô tôi viết,
mà chỉ duy nhất có mình tôi hiểu được.
Hơn tám năm bị đày đọa khốn cùng qua nhiều trại tù từ Nam ra Bắc,
tôi được thả về với thân xác tàn tạ tả tơi. Cuối cùng rồi tôi cũng trở về trong
vòng tay đùm bọc của cô tôi, như những ngày tôi còn tấm bé. Cô vẫn không lấy
chồng, ở vậy lo nuôi mấy ông anh phải ở trong tù và nhìn trò đời đổi thay dâu
biển, chẳng biết sẽ về đâu. Có điều bây giờ cô đã già, mắt cô đã mờ qua bao lần
phải khóc cho anh em, con cháu và cho cả dòng tộc đông đúc ngày xưa, giờ khốn
khổ, tan tác mỗi người mỗi ngả. Tối nào, cô tôi cũng đóng kín cửa, kể chuyện
đổi đời cho tôi nghe, trong ràn rụa nước mắt.
Cô bốn Thọ, mẹ của Thi, sau khi ông Khanh bị giết một thời gian,
người ta phát hiện bà nằm chết trong cái miếu hoang, cách nhà không xa mấy. Họ
bảo là bà tự tử. Không bao lâu, ông chồng bà mang vợ con từ miền Bắc vào ở ngôi
nhà của bà Thọ, sau này bán đi, dọn về thành phố. Con Thi móc nối một nhóm du
kích, tổ chức vượt biên cùng vợ chồng em nó. Nghe nói trong chuyến đi ấy có cả
thằng Vũ, nhưng không biết vì sao nó đang ở tù mà ra được. Chuyến đi thành
công, vì có cả một toán du kích mang theo đầy đủ súng ống, trong đó đa số là
đám trẻ bà con của bọn tôi ngày trước, không vào thành phố học, được Thi tìm
cách đưa vào làm du kích xã.
***
Năm 1987, sau gần hai năm vượt biển và được định cư ở Bắc Âu, nhân
dịp được nghỉ một tuần mùa Đông lại đúng vào dịp Tết âm lịch, tôi cùng vợ và
mấy đứa con lái xe sang Tây Đức thăm gia đình cô em, con bà cô. Vì cả cha mẹ
mất sớm nên cô em này sống với cha tôi từ khi còn nhỏ. Sau này làm việc trong
một cơ quan Mỹ nên cô quen biết và lấy chồng người Mỹ, một sĩ quan Không quân.
Cô theo chồng về Mỹ từ năm 1971, và lúc này cả hai vợ chồng đều sang làm việc
cho Khối NATO có căn cứ tại Tây Đức.
Ngày Thứ Bảy, mồng hai Tết, vợ chồng cô em rủ bọn tôi đến một
thành phố gần đó, có khá nhiều người Việt sinh sống, và hàng năm họ đều có tổ
chức hội Tết. Đây là một thành phố cổ nhưng khá sầm uất. Vì mùa Đông nên hội
Tết được tổ chức trong một trường trung học. Chúng tôi rất cảm động khi nhìn
thấy lá cở vàng ba sọc đỏ treo khắp nơi và những thiếu nữ xinh xắn trong tà áo
dài truyền thống. Có khá nhiều gian hàng vui chơi và cả sân khấu văn nghệ nữa.
Khi đang háo hức chờ đến phiên ca sĩ Kim Loan xuất hiện, người ca sĩ nổi tiếng
một thời không chỉ vì tiếng hát mà với bao giai thoại, bỗng tôi nghe văng vẳng
một giọng hô lô-tô từ một gian hàng khác. Ngay từ nhỏ, tôi đã không thích trò
chơi lô-tô này lắm, nhưng cái giọng hô nhịp nhàng của ai đó dường như có gì
thôi thúc, nhớ lại những cái Tết ngày xưa. Tôi bảo cô em và vợ tôi chờ xem ca
nhạc, tôi cần ra ngoài một lát. Giọng hô càng lúc càng gần hơn, rõ hơn, làm
lòng tôi thấy nôn nao kỳ lạ. Khi đến nơi, tôi bàng hoàng đến choáng váng, khi
nhận ra người đàn ông trẻ đang đứng trên chiếc bục gỗ hô lô-tô chính là thằng
Vũ. Điều tôi không bao giờ nghĩ tới, cho dù chỉ là một giấc mơ. Không kiềm chế
được, tôi vẫy tay gọi lớn: Vũ, Vũ!
Vũ khựng lại, chưa nhận ra tôi, có lẽ vì quá bất ngờ. Nhưng rồi nó
ngưng hô, gọi một người khác thay cho nó. Vừa nhảy xuống nó nhận ra tôi, cả hai
đứa tròn vo đôi mắt, nó ôm tôi quay mấy vòng. Vũ bảo tôi đứng chờ nó chạy đi
dắt vợ con nó tới chào tôi. Nó trở lại, dẫn theo một người con gái và hai đứa
nhỏ.
Tôi buột miệng:
- Là Thi, Thi Bình Định đây à?
Thi ôm chầm lấy tôi, im lặng. Tôi nghe tiếng sụt sùi.
Hai đứa con còn nhỏ, một trai một gái, trố mắt nhìn bọn tôi. Tôi
cúi xuống nắm bàn tay hai đứa. Nghe Thi bảo “chào cậu đi con”, cả hai đứa đều
lễ phép vòng tay, chào tôi bằng tiếng Việt. Đứa con gái có khuôn mặt giống Thi
ngày trước. Vũ bảo là vợ chồng vừa mới mở cái quán ăn nên khá bận rộn, nhưng vì
giúp cộng đồng tổ chức Tết gây quỹ Thương Phế Binh, nên tình nguyện phụ trách
hai gian hàng: Thi thì lo trò chơi, còn Vũ thì hô lô-tô.
Nhớ tới hội Tết ngày xưa, tôi đùa:
– Còn thiếu mái đình làng để tao còn đọc sớ táo quân nữa chứ.
Cả ba cùng cười trong niềm vui lẫn xúc động.
Tôi đưa vợ chồng Vũ Thi đến giới thiệu vợ con tôi và vợ chồng cô
em. Cô em tôi còn nhận ra Thi. Ai nấy đều ngạc nhiên. Không ngờ ở một nơi rất
xa lạ tình cờ lại gặp được cố tri. Vì hai vợ chồng đang bận, nên hẹn ngày mai
sẽ đến thăm chúng tôi và còn có biết bao nhiêu điều để nói. Tôi cho địa chỉ nhà
và số điện thoại của cô em, nhắc lại, nhất định phải dành cả ngày mai để tâm
tình và mừng cho cuộc trùng phùng.
Và chúng tôi đã có trọn một ngày thật vui và cũng thật cảm động.
Thi ngồi kể lại chuyện người cha mà Thi từng tin rằng đã chết, rồi bỗng dưng
trở về như một người xa lạ. Chi ghê tởm ông từ khi hiểu được cái chết đột ngột
và ghê rợn của bác Khanh, cha của Vũ, và của chính bà Thọ, mẹ mình. Thi đã sớm
nhận ra tính vô cảm tàn độc và quỷ quyệt của những người cộng sản, nhưng phải
giả vờ dựa vào ông để có thể cứu Vũ và tìm cho chính mình lối thoát. Thi đã
giới thiệu mấy đứa trong đám bạn ngày xưa vào làm du kích xã, để âm thầm giúp
bà con, nhất là những người trong quân đội hay chính quyền ngày trước. Chính
Thi và nhóm bạn xưa đã hiệp lực tìm kế giúp Vũ và một người bạn khác trốn khỏi
trại tù A-30, cấp đồng phục, tiền bạc và thẻ “cán bộ thị trường” giả để dễ dàng
lẫn trốn trong thành phố, và tìm cách tổ chức vượt biên. Nhờ uy quyền của ông
cha, nên những tay công an địa phương không hề nghi ngờ cũng như không dám kiểm
soát những người cùng đi với Thi. Được tàu Cap Anamur vớt trên biển, nên hầu
hết được định cư ở Tây Đức, quanh quẩn vùng này, không cách xa nhau mấy.
Chúng tôi ngồi ôn lại bao nhiêu chuyện cũ, nhắc lại những cái Tết
hạnh phúc vui vẻ ngày xưa, khi cả đám bọn tôi còn vô tư, hồn nhiên, chưa hề
nghĩ tới những thay đổi đau đớn trong cuộc đời. Vợ chồng Vũ Thi cáo từ và hẹn
gặp lại ngày mai, sẽ đóng cửa tiệm, ăn Tết thêm một ngày nữa, gọi mấy thằng bạn
nối khố và vợ chồng Hải Tứ từ các thành phố khác về tập trung họp mặt ở nhà vợ
chồng nó. Chắc mọi người sẽ trẻ ra khi cùng sống lại cái không khí Tết thanh
bình của mấy mươi năm về trước. Cái thời mà cả Đất Trời và mọi người ai nấy
cũng dễ thương.
Phạm Tín An Ninh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét