Thứ Hai, 17 tháng 1, 2022

Thơ Đỗ Phủ - Bài 31, 32

 


THƠ ĐỖ PHỦ - BÀI 31 , 32
Thầy Dương Anh Sơn

Bài 31

Ai giang đầu                                                                           哀 江 頭 

Thiếu Lăng dã lão thôn thanh khốc,                                        少陵野老吞聲哭,
Xuân nhật tiềm hành Khúc giang khúc.                                   春日潛行曲江曲。
Giang đầu cung điện toả thiên môn,                                        江頭宮殿鎖千門,
Tế liễu tân bồ vị thuỳ lục?                                                        細柳新蒲為誰綠。
Ức tích nghê tinh há nam uyển,                                                憶昔霓旌下南苑,
Uyển trung vạn vật sinh nhan sắc.                                            苑中萬物生顏色。
Chiêu Dương điện lý đệ nhất nhân,                                          昭陽殿裡第一人,
Đồng liễn tuỳ quân tại quân trắc.                                             同輦隨君侍君側。
Liễn tiền tài nhân đới cung tiễn,                                              輦前  帶弓箭,
Bạch mã tước khiết hoàng kim lặc.                                         白馬嚼嚙黃金勒。
Phiên thân hướng thiên ngưỡng xạ vân,                                  翻身向天仰射雲,
Nhất tiễn chính truỵ song phi dực.                                          一正墜雙飛翼。
Minh mâu hạo xỉ kim hà tại?                                                   明眸皓齒今何在,
Huyết ố du hồn quy bất đắc.                                                    血污遊魂歸不得,
Thanh Vị đông lưu, Kiếm Các thâm,                                       清渭東流劍閣深,
Khứ trú bỉ thử vô tiêu tức.                                                       住彼此無消息
Nhân sinh hữu tình lệ triêm ức,                                               人生有情淚沾臆,
Giang thuỷ giang hoa khởi chung cực.                                    江水江花豈終極。
Hoàng hôn Hồ kỵ trần mãn thành,                                          黃昏胡騎塵滿城,
Dục vãng thành nam vọng thành bắc.                                     欲往城南望城北。
Đỗ Phủ                                                                                    杜 甫  

Dịch nghĩa:

Ông lão quê mùa thôn Thiếu Lăng khóc to nghẹn ngào, ngày xuân âm thầm đi ra khúc quanh của sông Khúc. Ở đầu sông, cửa các cung điện đều khép kín, cây liễu nhỏ, đám cỏ lác còn non vì ai mà xanh ngắt! (c.1-4) 

Nhớ khi xưa  cờ bảy màù như sắc cầu vồng xuống  khu vườn ở phía nam, cảnh vật trong vườn đều mang vẻ đẹp lộng lẫy. Người bậc nhất trong cung Chiêu Dương, cùng theo hầu xe vua ở bên cạnh nhà vua (c.5-8).  

Trước xe vua là các nữ quan khoác cung tên, con ngựa trắng ngậm dàm ngựa với dây cương vàng. Xoay người, hướng lên trời, (nữ quan) ngẩng đầu bắn vào mây. Một mũi tên chính giữa đã làm rơi rụng hai cánh chim bay! (c.9-12).  

Con ngươi sáng rõ của người trẻ tuổi, nay ở chốn nào? Hồn rong chơi với máu vây bẩn không quay về được. Dòng sông Vị nước trong vắt trôi chảy về phía đông, hang Kiếm Các ở sâu hun hút! Đi hay ở này nọ không có tin tức (c.13-16). 

Con người sinh ra có tình cảm ,nước mắt đẫm ướt ngực! Nước sông, hoa cỏ bên sông há sao mất hết tất cả! Chiều tối, người Hồ cưỡi ngựa làm tung bụi khắp thành, muốn đi đến phía nam của thành lại trông ngóng về phía bắc thành! (c.17-20).

Tạm chuyển lục bát:

XÓT THƯƠNG Ở ĐẦU SÔNG.

Khóc ào lão hủ Thiếu Lăng,
Đi vùng sông Khúc ngày xuân âm thầm .
Cung trời cửa khép đầu sông,
Cỏ bồ, liễu nhỏ xanh ngần vì ai!
Vườn nam, nhớ sắc cờ bay,
Trong vườn cảnh vật vẻ bày đẹp tươi.
Chiêu Dương trên hết một người,
Hầu vua xe ngự sánh người cùng bên.
Trước xe, quan nữ cung tên,
Ngậm dàm, ngựa trắng, buộc lên cương vàng.
Bắn mây, đầu ngẩng xoay thân,
Chim bay đôi cánh, một tên lộn nhào!
Trẻ người, mắt tỏ nay đâu?
Máu hoen, hồn dạt về sao được rồi!
Thẳm sâu Kiếm Các, Vị trôi,
Ở , đi này nọ chẳng tăm hơi nào!
Người đời tình đẫm lệ trào,
Nước sông, hoa lá há sao chẳng còn.
Ngựa Hồ vấy bụi hoàng hôn,
Nam thành muốn đến, vời trông bắc thành!

Chú thích:
***   Khi quân An Lộc Sơn chiếm Trường An (756) vua Đường Minh Hoàng di tản vào đất Thục giao việc phục quốc cho con trai là Lý Hanh (Túc Tông), Đỗ Phủ đưa gia quyến về Phu Châu rồi một mình đi Linh Vũ theo Túc Tông. Giữa đường ông bị quân An Lộc Sơn bắt giải về Trường An nên có dịp chứng kiến cảnh hoang tàn của thủ đô bèn viết bài này để bày tỏ lòng thương xót cho sự đổi thay.

- Thiếu Lăng dã lão thôn 少 陵 野 老 吞: ông lão quê mùa thôn Thiếu Lăng. Đỗ Phủ ngoài tự hiệu Tử Mỹ, biệt hiệu Đỗ Lăng dã khách 杜陵野客, Đỗ Lăng bố y 杜陵布衣, còn có thêm biệt hiệu nữa là Thiếu Lăng dã lão 少陵野老.
- tiềm hành 潛 行: đi lặng lẽ, kín đáo, âm thầm...
- Khúc giang 曲 江: tên một con sông ở vùng Quảng Đông, Trung Hoa.
- nghê tinh 霓 旌: cờ có màu sắc bảy màu như mống cầu vồng
- nhan sắc 顏 色: vẻ đẹp lộng lẫy của vạn vật hay người thiếu nữ...
- liễn 輦: xe chở vua, càng xe, kéo xe...
- tài nhân 才人: người có tài năng, nữ quan theo hầu vua xưa kia...
- đới  帶: khoác, vác, mang....
- Chiêu Dương điện 昭 陽 殿: cung điện Đường Minh Hoàng thường ngự cùng Dương Quý phi...
- tước khiết 嚼 嚙: nhai, ngậm, nhấm nháp, gặm nghiền ngẫm, nói lải nhải...
- lặc 勒: dây cương ngựa cột vào cái dàm, ngựa ngậm trong miệng để điều khiển ngựa....
- phiên thân 翻 身: xoay ngươi lại, xoay mình, lật lại, vượt qua, bay liệng...
- minh mâu 明 眸: con ngươi, con mắt sáng tỏ...
- hạo xỉ 皓 齒: răng trắng,hỉ những người còn trẻ hay còn thơ ấu...
- Vị : tức Vị Hà ( 渭河) hay Vị Thủy ( 渭 水) là tên con sông nằm phía tây miền trung của Trung Hoa cũng là nhánh sông lớn nhất của Hoàng Hà bắt nguồn từ huyện Vị Nguyên tỉnh Cam Túc chảy song song với Hoàng Hà trong vùng Thiểm Tây theo hướng tây đông.
- bỉ thử 彼此: này nọ, cái này và cái kia, hai bên như một.
- vô tiêu tức 無 消 息: chẳng có tin tức gì, bặt tin, không tăm hơi, biến hóa, tăng giảm...
- triêm ức 沾 臆: thấm đẫm, ngấm vào ngực...
- khởi 豈: há sao, há dám, há chăng...
- chung cực 終 極: hết tất cả, hết tận cùng, kết thúc trọn vẹn...
- vãng 往: đi đến, đi qua, đã qua, vào tới, đưa cho, cấp cho...

Bài 32

GIAI NHÂN                                                                  佳 人

Tuyệt đại hữu giai nhân,                                                 絕代有佳人,
U cư tại không cốc.                                                        幽居在空谷。
Tự vân lương gia tử,                                                       自云良家子,
Linh lạc y thảo mộc.                                                       零落依草木。
Quan Trung tích táng loạn,                                             關中昔喪亂,
Huynh đệ tao sát lục.                                                      兄弟遭殺戮。
Quan cao hà túc luận,                                                     官高何足論,
Bất đắc thu cốt nhục.                                                      不得收骨肉。
Thế tình ố suy yết,                                                          世情惡衰歇,
Vạn sự tuỳ chuyển chúc.                                                萬事隨轉燭。
Phu tế khinh bạc nhi,                                                      夫婿輕薄兒,
Tân nhân mỹ như ngọc.                                                  新人美如玉。
Hợp hôn thướng tri thời,                                                合昏尚知時,
Uyên ương bất độc túc.                                                  鴛鴦不獨宿。
Ðãn kiến tân nhân tiếu,                                                  但見新人笑,
Ná văn cựu nhân khốc.                                                   那聞舊人哭。
Tại sơn tuyền thuỷ thanh,                                               在山泉水清,
Xuất sơn tuyền thuỷ trọc.                                               出山泉水濁。
Thị tỳ i châu hồi,                                                       侍婢賣珠迴,
Khiên la bổ mao ốc.                                                       牽蘿補茅屋。
Trích hoa bất sáp phát,                                                   摘花不插髮,
Thái bách động doanh cúc.                                            采柏動盈掬。
Thiên hàn thuý tụ bạc,                                                    天寒翠袖薄,
Nhật mộ ỷ tu trúc.                                                          日暮倚修竹。
Đỗ Phủ                                                                           杜 甫  

Dịch nghĩa:

Có người thiếu nữ tuyệt đẹp sống ẩn dật nơi hang núi vắng vẻ, tự mình kể rằng: mình là con nhà tử tế đàng hoàng bị tan tác, phải nương dựa vào cây cỏ (c.1-4) 

Nhớ khi ở Quan Trung lúc loạn lạc, anh em đã bị giết chết rồi bị phanh thây. Quan cao sao lại cần bàn luận đủ đầy mà chi, vẫn không thu lại được phần xương thịt (c.5-8).

Tình đời ghét sự suy tàn, muôn việc thay đổi nhanh chóng. Chàng rể là kẻ bạc bẽo, người mới (đem về) đẹp như ngọc (c.9-12) 

Lấy nhau vẫn còn biết thời cơ ,chim uyên ương không ở đơn độc, lẻ loi. Chỉ thấy người mới đến vui cười, nào có nghe người cũ khóc than! (c .13-16) 

Ở nơi non ngàn nước suối trong vắt, ra khỏi núi nước bị đục ngầu. Cô người hầu đi bán ngọc trở về, kéo các dây leo dại để chắp vá, bồi thêm cho ngôi nhà cỏ lợp mái tranh (c.17-20)

Hái hoa nhưng không cài lên tóc, hái lá bách vốc đầy trong nắm tay. Trời lạnh, tay áo xanh mong manh, lúc trời sắp tối dựa vào cây trúc dài.

Tạm chuyển lục bát:

NGƯỜI ĐẸP

Có người rất đẹp hơn đời,
Ở vùng hang núi trống vời vắng tanh.
Con nhà tử tế hiền lành,
Cỏ cây nương tựa, suy tàn rụng rơi.
Quan Trung xưa loạn tơi bời,
Anh em bị giết để rồi phanh thây!
Quan cao bàn bạc đủ đầy?
Thịt xương thâu lại chuyện rày được đâu!
Tình đời tàn lụi ghét sao! 
Đổi thay đèn đuốc như bao chuyện đời.
Người chồng bạc bẽo kia rồi,
Đẹp xinh như ngọc là người mới thôi.
Lấy nhau vẫn biết thế thời,
Uyên ương không ở lẻ loi một mình!
Chỉ nghe người mới cười xinh,
Nào nghe người cũ xót mình khóc than!
Ở non, con suối trong ngần,
Chảy ra khỏi núi, suối vần đục thôi!
Gái hầu bán ngọc về rồi,
Mái tranh nhà cỏ kéo bồi đám dây.
Ngắt hoa ,mái tóc chẳng cài,
Hái vun lá bách vốc đầy nắm tay!
Lạnh trời tay áo xanh bày,
Tựa vào đám trúc thân dài chiều hôm!

Chú thích :
**  Bài này làm năm 759 khi tác giả qua Tần Châu, tả một người đàn bà trong loạn ly, anh em bị giết, chồng bỏ, ở một thân nghèo khổ nơi vùng núi non vắng vẻ. Theo các chú giải về thơ Đỗ Phủ, đây là một bài thơ ký thác, gửi gắm tâm sự hay nỗi lòng, như Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị.
- tuyệt đại  絕代: hơn hết trong đời.
- không cốc 空谷: hang núi, khe núi vắng vẻ.
- lương gia tử 良家子: con nhà tử tế, hiền lành, đàng hoàng.
- linh lạc 零落: héo rụng, tan tác, suy tàn...
- y 依 : nương tựa ,dựa vào ,giống như ,y như...
- Quan Trung 關中: là một vùng bình nguyên rộng lớn ở bên dòng sông Vị hay còn gọi là bình nguyên Vị Hà 渭河平原. Bình nguyên lịch sử này nằm ở phía tây Trung Hoa xưa kia do nhà Tần cai quản. Khi nhà Tần thống nhất Trung Hoa, vùng Quan Trung trở thành trung tâm hành chính quan trọng của nhà Tần bao gồm tỉnh Thiểm Tây và vùng biên giới phía tây. Đây là nơi đặt kinh đô của 12 triều đại Trung Hoa như Hán, Tùy, Đường... v.v...
- tích 昔: xưa cũ, lâu đời, trước đây, ban đêm....
- táng loạn 喪亂; mất mát do loạn lạc.
- tao 遭: gặp phải, gặp gỡ, không hẹn mà gặp, vòng lượt, vô ý mà gặp...
- chuyển chúc 轉燭: đổi cây đuốc (hay cây nến), chỉ việc đời thay đổi nhanh chóng.
- khinh bạc nhi 輕薄兒: đứa, kẻ khinh bạc, kẻ bạc bẽo, kẻ thiếu suy nghĩ, không cẩn thận.
- thướng 尚: ưa chuộngthích thú, vẫn còn, hơn hẳn, vượt bậc, tông sùng, mong muốn...
- đãn kiến 但見: chỉ trông thấy...
- ná văn 那聞: há có nghe, sao chẳng nghe....
- khiên la 牽蘿: kéo rút dây leo dại...
- trích  摘: ngắt hái, trích ra, bẻ ngắt, chọn lấy...
- doanh cúc 盈掬: đầy, nhiều trong nắm tay (cúc: nắm đồ vật trong tay)
- tu trúc 修竹: cây trúc cao dài...

[Lần đến: Bài 33 (Tặng Vệ Bát Xử sĩ), bài 34 (Bần giao hành), bài 35 (Tàm cốc hành) , bài 36 (Kim tịch hành)]        

Dương Anh Sơn                                                
                                                  
   

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét