THANH HIÊN THI TẬP - BÀI 57, 58, 59 VÀ 60
Thầy Dương Anh Sơn
Bài 57
LAM GIANG 藍 江
Thanh thần vọng Lam Giang, 清晨望藍江 ,
Lam Giang trướng thu thuỷ. 藍江漲秋水 .
Ngư miết du khâu lăng, 魚鱉遊丘陵 ,
Ngưu mã mê nhai sĩ. 牛馬迷涯涘 .
Dĩ ngạn băng bạo lôi, 圮岸崩暴雷 ,
Hồng đào kiến kỳ quỷ. 鴻濤見奇鬼 .
Nguy hiểm thắng nhân tâm, 危險勝人心 ,
Khuynh phúc diệc thiên ý. 傾覆亦天意 .
Ngã vọng Lam Giang đầu. 我望藍江頭 ,
Thốn tâm thường chuý chuý. 寸心常惴惴 .
Thường khủng nhất thất túc, 常恐一失足 ,
Cốt một vô để chỉ. 汨沒無底止 .
Như hà thế gian nhân, 如何世間人 ,
Thừa hiểm bất tri uý? 乘險不知畏 .
Khứ giả hà thao thao! 去者何滔滔 ,
Lai giả thượng vị dĩ. 來者尚未已 .
Đế đức bản hiếu sinh, 帝德本好生 ,
Ná đắc trường như thị? 那得長如是 .
Nghĩ khu Thiên Nhận sơn, 擬驅千仞山 ,
Điền bình ngũ bách lý. 填平五百里 .
Nguyễn Du 阮 攸
Dịch nghĩa:
Buổi sáng sớm nhìn về dòng sông Lam. Vào mùa thu, nước sông Lam dâng lớn. Con cá giải bơi lượn trên các gò đất; trâu ngựa lạc lối về bến sông. Bờ sông bị sạt lở vang ầm như tiếng sấm. Cơn sóng lớn trông như lũ quỷ kỳ lạ và hiểm nguy hơn cả lòng dạ con người! (c.1-8) Việc sạt lở đều do ý của ông trời. Ta nhìn về đầu dòng sông Lam mà tấc lòng vẫn thường lo lắng hãi sợ. Vẫn thường sợ một lần sẩy bước chân, để phải chìm xuống tận đáy sông! Thế sao người đời cứ cưỡi trên những hung hiểm chẳng biết sợ gì! Người ra đi mãi vẫn không ngừng nghỉ? Còn người đến về sau cũng chưa thôi! (c.9-16) Ông trời vốn có đức thương các loài trong đời cớ sao cứ để kéo dài mãi như thế này? Muốn xô đẩy núi Thiên Nhận để lấp bằng phẳng năm trăm dặm (dòng sông Lam). (c.7-20)
Tạm chuyển lục bát:
SÔNG LAM
Trông vời sáng sớm dòng Lam,
Sông Lam dâng nước ngập tràn vào thu.
Lượn bơi cá giải mả gò,
Bến về lạc lối lờ mờ ngựa trâu.
Bờ sông sạt lở sấm ào,
Sóng to như thấy quỷ sao lạ đời!
Hiểm nguy hơn cả lòng người,
Lật nghiêng sạt lở ý trời cả thôi!
Đầu sông Lam, ngóng trông vời,
Ta đây sợ hãi lo nơi tấc lòng.
Sợ rằng sơ sẩy bước chân,
Chìm sâu không đáy chẳng dừng được thay!
Thế sao người ở đời này,
Cưỡi trên hung hiểm chẳng hay sợ nào!
Người ra đi vẫn ào ào,
Sao người đến lúc sau này chưa ngơi!!
Ông trời vốn rất thương đời,
Cớ chi cứ để mãi thôi vậy này?
Núi Thiên Nhận muốn xô ngay!
Lấp năm trăm dặm cho đầy phẳng tăm!
Chú thích:
- thanh thần 清晨: buổi sớm mai, sáng sớm.
- trướng 漲: nước dâng lên, nước mênh mông, trương lên...
- ngư miết 魚鱉: cá giải, một loại cá ở sông.
- mê 迷: mất, lạc lối, mê đắm, mê mờ.....
- nhai sĩ 涯涘: bến sông, bờ nước.
- băng 崩: sạt lở
- hồng đào 鴻濤: cơn sóng to lớn, mạnh mẽ (hồng: mạnh, to, loài chim hồng lớn).
- khuynh phúc 傾覆: lật nghiêng, đảo lại.
- chúy chúy 惴惴: lo lắng, sợ hãi.
- cốt một 汨沒: chìm mất tăm, chìm đắm.
- chỉ 止: dừng lại, thôi, cử chỉ, dáng dấp...
- gian nhân 間人: (間: gian, gián, nhàn) con người ở trong đời, ở giữa trời đất, ở giữa khoảng không gian.
- thao thao 滔滔: chảy cuồn cuộn, không ngớt, không dừng lại, hỗn loạn, nói mãi không ngưng....
- dĩ 已: ngừng lại, thôi...
- đế đức 帝德 : đức của ông trời hay còn gọi là thượng đế 上帝.
- nghĩ khu 擬驅: muốn xua đuổi, muốn xô đẩy.
- điền bình 填平: lấp cho bằng phẳng, lấp bằng.
- Thiên Nhận Sơn 千仞山: dãy núi nằm giữa huyện Hương Sơn (Hà Tĩnh) và huyện Thanh Chương (Nghệ An) ngăn sông Phố và sông Lam.
Bài 58
ĐỘ LONG VĨ GIANG 渡 龍 尾 江
Cố quốc hồi đầu lệ, 故國回頭淚 ,
Tây phong nhất lộ trần. 西風一路塵 .
Tài quá Long Vĩ thuỷ, 纔過龍尾水 ,
Tiện thị dị hương nhân. 便是異鄕人 .
Bạch phát sa trung hiện, 白髮沙中見 ,
Ly hồng hải thượng văn. 離鴻海上聞 .
Thân bằng tân khẩu vọng, 親朋津口望 ,
Vị ngã nhất triêm cân. 為我一沾巾 .
Nguyễn Du 阮 攸
Dịch nghĩa:
Ngoảnh đầu về lại quê nhà ,nước mắt lưng tròng. Gió tây nổi lên thổi vào con đường đi dấy bụi bặm. Vừa đi qua sông Vĩ đã trở là khách lạ nơi quê người. Giữa bãi cát phơi bày mái tóc đã bạc. Nghe tiếng chim hồng lìa bầy trên biển khơi. Những người thân thích và bạn bè ngóng trông theo từ cửa bến sông, vì ta mà chiếc khăn lau đẫm lệ rơi.
Tạm chuyển lục bát:
QUA SÔNG LONG VĨ
Quê nhà rơi lệ ngoảnh trông,
Một con đường bụi gió lồng phía tây.
Vừa qua Long Vĩ sông này,
Đã là khách lạ chốn đây quê người.
Tóc bày bãi cát bạc phơi,
Lìa bầy nghe vọng ngoài khơi tiếng hồng.
Người thân cửa bến ngóng trông,
Vì ta mắt ướt lưng tròng đẫm khăn!
Chú thích:
*** Trong bài thơ này và nhiều bài thơ trước, Nguyễn Du vẫn thường đề cập hình tượng “gió tây” có lẽ để ám chỉ sự trổi dậy của triều Tây Sơn làm thay đổi và ảnh hưởng đến bao người trong đó có đại gia đình Tố Như (câu 2).
- tài 纔 : vừa qua, vừa rồi, mới vừa xong.
- Long Vĩ 龍尾: tên khúc sông của nhánh Lam Giang gần quê Nguyễn Du dài từ trên nguồn phía tây chảy đến Ngã Ba phủ Hưng Nguyên gọi là Long Vĩ Giang.
- tiện thị 便是: chính là, đã là, vậy là....
- hiện 見: âm của “kiến”, chỉ sự phơi bày, lộ rõ ra, hiện ra.
- tân khẩu 津口: cửa sông, cửa bến.
Bài 59
ĐIẾU LA THÀNH CA GIẢ 吊羅城歌者
Nhất chi nùng diễm há bồng doanh, 一枝濃艷下蓬瀛 ,
Xuân sắc yên nhiên động lục thành. 春色嫣然動六城 .
Thiên hạ hà nhân liên bạc mệnh? 天下何人憐薄命 ,
Trủng trung ưng tự hối phù sinh. 塚中應自悔浮生 .
Yên chi bất tẩy sinh tiền chướng, 胭脂不洗生前障 ,
Phong nguyệt không lưu tử hậu danh. 風月空留死後名 .
Tưởng thị nhân gian vô thức thú, 想是人間無識趣 ,
Cửu tuyền khứ bạn Liễu Kỳ Khanh. 九泉去伴柳耆卿 .
Nguyễn Du 阮 攸
Dịch nghĩa
Một cành hoa xinh đẹp thắm nồng từ chốn thần tiên xuống đây. Sắc đẹp mơn mởn như mùa xuân với nụ cười chúm chím làm lay động cả sáu thành. Trong đời, ai là người thương xót cho kẻ mệnh bạc, số phận long đong? Dưới mồ, chắc (nàng) cũng nuối tiếc vì cuộc đời trôi nổi. Son phấn không tẩy rửa những nghiệp chướng từ tiền kiếp. Khi mất đi, chỉ để lại tiếng tăm là kẻ trăng gió mà thôi. Cứ nghĩ rằng người đời không theo để hiểu được (mình). Vì thế nơi chín suối sẽ làm bạn với ông Liễu Kỳ Khanh.
Tạm chuyển lục bát:
VIẾNG NGƯỜI CA NỮ Ở LA THÀNH
Cõi Bồng thắm đẹp một cành,
Vẻ xuân cười nụ sáu thành ngất ngây!
Ai thương kẻ mệnh bạc này,
Dưới mồ tiếc nuối lắm thay kiếp người.
Phấn son chẳng rửa nợ đời,
Tiếng tăm để lại chết rồi : gió trăng!
Người đời ai hiểu thấu chăng,
Về nơi chín suối bạn cùng Kỳ Khanh.
Chú thích :
- La Thành 羅城: tức thành Nghệ An còn gọi là Lam Thành.
- nùng diễm 濃艷: đẹp xinh xắn, đẹp thắm nồng gợi cảm, đẹp mơn mởn...
- bồng doanh 蓬瀛: theo truyền thuyết cổ Trung Hoa, ngoài biển có ba ngọn núi Bồng Lai, Phương Trượng và Doanh Châu là nơi ở của các tiên nữ và chư tiên .
- yên nhiên 嫣然: cười nụ, cười chúm chím, cười nhẹ tênh.
- bạc mệnh 薄命: số phận bạc bẻo, mong manh.
- yên chi 胭脂: son phấn để trang điểm.
- tiền chướng 前障 những chướng nghiệp, oan trái từ kiếp trước tác động lên số mệnh của kiếp này (Phật).
- Liễu Kỳ Khanh 柳耆卿: tức Liễu Vĩnh, người đời Tống (897-1053) đậu tiến sĩ lúc đã già. Ông thường lui tới các ca lâu nên hiểu rõ cuộc sống của những kỹ nữ và làm các bài từ thay họ nói lên mơ ước và lòng cảm thông.
Bài 60
NINH CÔNG THÀNH 寧 公 城
Độc thướng cao sơn nhãn giới tân, 獨上高山眼界新 ,
Anh hùng vãng sự quải giang tân. 英雄往事掛江津 .
Nhất thành thượng hạ tận kiều mộc, 一城上下盡喬木 ,
Thập lý uy phong kiến cổ nhân. 十里威風見古人 .
Thử địa bắc nam quy nhất trục, 此地北南歸一軸 ,
Đương thì tỉnh táo trú tam quân. 當時井燥駐三軍 .
Thập niên vị tiết nam nhi hận, 十年未泄男兒恨 ,
Đàn kiếm trường ca đối bạch vân. 彈劍長歌對白雲 .
Nguyễn Du 阮 攸
Dịch nghĩa:
Một mình leo lên núi cao, tầm mắt nhìn khắp như mới mẻ hơn. Câu chuyện cũ về những người anh hùng vẫn được treo nơi bến sông (như những bức tranh vẽ treo lên). Một thành trì có nhiều cây cao to ở trên thành cũng như dưới chân thành. Vẫn còn thấy vẻ oai phong của người xưa từ mười dặm xa. Nơi đây là trục nối từ bắc vào nam. Một thuở nào đấy cũng từng là nơi đóng quân có giếng ăn, bếp nấu. Mười năm rồi, hận là chưa bày tỏ được chí nam nhi. Trước làn mây trắng bay, ta vỗ gươm và hát vang thôi.
Tạm chuyển lục bát:
THÀNH ÔNG NINH
Lên non tầm mắt mới hơn,
Bến sông treo truyện anh hùng thuở nao.
Trên thành, dưới đất cây cao,
Người xưa, mười dặm oai phong thấy bày.
Trục nam bắc, nối từ đây,
Bấy giờ giếng bếp chốn này đóng quân.
Hận trai chưa tỏ mười năm,
Trước làn mây trắng hát tràn vỗ gươm.
Chú thích:
- Ninh Công Thành 寧公城: Thành Ông Ninh do Trịnh Ninh, còn có tên là Trịnh Toàn làm Trấn Thủ Nghệ An xây dựng. Có lẽ, Nguyễn Du đề cập đến thành gần sông Lam, trên núi Dũng Quyết nơi xảy ra các trận đánh giữa quân đàng trong và quân đàng ngoài (quân chúa Trịnh và quân nhà Nguyễn) vì Trịnh Ninh đã cho xây rất nhiều thành trì ở Nghệ An để chống lại các thế lực phía nam.
- nhãn giới 眼界: tầm nhìn, giới hạn nhìn ,mốc nhìn
- quải 掛: treo lên.
- kiều mộc 喬木: cây rất cao và to lớn.
- trục 軸: tức trục cốt của bánh xe; chỉ sự cốt yếu, cốt lõi hoặc người giữ trách nhiệm quan yếu.
- tiết 泄: tỏ lộ, bày rõ ràng, chảy ra, tiết ra, tinh thông.
- thập niên 十年: có lẽ Nguyễn Du đề cập mười năm ông phải đi lánh nạn và ở nhờ quê vợ tại Thái Bình (1786-1796)
Dương Anh Sơn
[Lần đến :Thanh Hiên Thi Tập: Bước đầu ra làm quan triều Nguyễn (Bài 61, 62 và 63)]
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét