Thứ Sáu, 17 tháng 11, 2023

Thơ Tô Đông Pha - Bài 6, 7 Và 8

 


THƠ TÔ ĐÔNG PHA - BÀI 6, 7 VÀ 8
Thầy Dương Anh Sơn

THƠ TÔ ĐÔNG PHA
蘇東坡詩

Bài 6

BÁCH BỘ HỒNG                                                                     百步洪
Trường hồng đẩu lạc sinh khiêu ba,                                          長洪斗落生跳波,
Khinh chu nam hạ như đầu thoa.                                               輕舟南下如投梭。
Thuỷ sư tuyệt khiếu phù nhạn khởi,                                          水師絕叫鳧雁起,
Loạn thạch nhất tuyến tranh tha ma.                                         亂石一線爭磋磨。
Hữu như thố tẩu ưng chuẩn lạc,                                                有如兔走鷹隼落,
Tuấn mã hạ chú thiên trượng pha.                                             駿馬下注千丈坡。
Đoạn huyền ly trụ tiễn thoát thủ,                                               斷絃離柱箭脫手,
Phi điện quá khích châu phiên hà.                                             飛電過隙珠翻荷。
Tứ san huyễn chuyển phong lược nhĩ,                                      四山眩轉風掠耳,
Đãn kiến lưu mạt sinh thiên qua.                                               但見流沫生千渦。
Hiểm trung đắc lạc tuy nhất khoái,                                           嶮中得樂雖一快,
Hà ý thuỷ bá khoa thu hà?                                                         何意水伯誇秋河。
Ngã sinh thừa hoá nhật dạ thệ,                                                  我生乘化日夜逝,
Toạ giác nhất niệm du Tân La.                                                  坐覺一念逾新羅。
Phân phân tranh đoạt tuý mộng lý,                                            紛紛爭奪醉夢裏,
Khởi tín kinh cức mai đồng đà.                                                 豈信荊棘埋銅駝。
Giác lai phủ ngưỡng thất thiên kiếp,                                         覺來俯仰失千劫,
Hồi thị thử thuỷ thù uy di.                                                         回視此水殊委蛇。
Quân khán ngạn biên thương thạch thư                                    君看岸邊蒼石上,
Cổ lai cao nhãn như phong khoa.                                              古來篙眼如蜂窠。
Đãn ưng thử tâm vô sở trụ,                                                        但應此心無所住,
Tạo vật tuy sử như ngô hà.                                                        造物雖駛如吾何。
Hồi thuyền thướng mã các quy khứ,                                         回船上馬各歸去,
Đa ngôn náo náo sư sở a.                                                           多言譊譊師所呵。

Dịch nghĩa:

Cơn mưa kéo dài rất lớn trút xuống làm cho con sóng nhảy lên! Con thuyền nhỏ xuôi về phương nam nhanh chóng như con thoi. Quan và lính trên thuyền kêu lớn khiến vịt trời và chim nhạn bay lên. Một tia nước bắn tranh giành chà xát vào dãy đá hỗn độn (c.1-4)  Có khi như chú thỏ trốn chạy trước mũi con chim ưng đang bay xuống; con tuấn mã từ dốc đứng ngàn trượng chăm chú nhìn xuống! Hoặc như mũi tên rời bỏ dây và cung thoát khỏi tay bay đi. Hoặc như tia chớp bay qua khe hở vùn vụt như những hạt ngọc bay vào hoa sen (c.5-8). Bốn quả núi xoay chuyển làm hoa mắt, như gió lướt nhẹ qua tai! Chỉ thấy bọt nước tuôn chảy sinh ra ngàn chỗ nước xoáy! Trong sự hiểm nguy, có được sự vui thú dù chỉ là một việc thoáng qua! Vì sao ý của thần sông lại khoe khoang dòng sông mùa thu? (c.9-12). Đời ta như cưỡi lên sự biến hóa của ngày đêm trôi mãi không trở lại! Ngồi thức dậy một thoáng đã vượt qua Tân La. Chuyện rối ren và giành giật xảy ra trong giấc mộng say! Há tin là gai góc đã che phủ con lạc đà bằng đồng!? (c.13-16). Khi tỉnh ra ,cúi xuống rồi ngẩng đầu lên đã mất đi ngàn kiếp! Quay lại nhìn kỹ dòng sông này dù khác đi vẫn đang uốn lượn! Bạn hãy xem: ven bờ sắc cỏ xanh ở trên đá và xưa nay những lỗ do sào đẩy thuyền nhiều như ổ loài ong! (c.17-20). Nếu như tấm lòng này không có chỗ để dừng; ông trời dù sai khiến mọi vật, còn ta đây sẽ như thế nào?! Thuyền quay trở lại, mỗi người đều lên ngựa đi về nhà. Ôi thôi! Rất nhiều lời tranh cãi ồn ào về nơi chốn của bậc tôn sư (c.21-24).

Tạm chuyển lục bát:

BÁCH BỘ HỒNG

Cơn mưa trút xuống sóng lên!
Như thoi nhanh chóng đưa thuyền xuôi Nam.
Kêu to: vịt én bay tràn!
Nước giành đống đá hỗn mang cọ mài.
Như ưng, thỏ phải chạy dài,
Dốc non ngàn trượng ngựa hay mãi nhìn.
Rời dây thoát trụ mũi tên,
Qua khe ,ngọc trải đài sen chớp lòa,
Vần xoay bốn núi gió qua,
Thấy chăng ngàn xoáy bọt kia sinh thành.
Hiểm nguy, vui thú thoáng nhanh!
Thần sông sao lại khoe làn nước thu?
Đêm ngày cưỡi mãi đời ta!
Tỉnh ra, ngồi vượt Tân La chốc mòng.
Mộng say tranh đoạt rối tung.
Lạc đà gai phủ tượng đồng tin không?
Tỉnh ra: cúi ngẩng - kiếp muôn!
Quay nhìn dẫu khác sông này uốn quanh.
Bạn xem: bờ đá sắc xanh!
Xưa nay sào chống làm thành ổ ong.
Không nơi bám víu: cõi lòng,
Dẫu trời sai khiến, còn lòng của ta?
Quay thuyền, lên ngựa về nhà,
Nhiều lời tranh cãi ồn la sư thầy!

Chú thích:

** Bách Bộ Hồng hay còn gọi là Từ Châu Hồng là một địa danh cách núi Đồng San ở Từ Châu bênTrung Hoa hai dặm về phía đông. Đây là nơi Tô Thức và người bạn là nhà sư Đạo Tiệm đi thuyền ghé chơi khi ông làm quan ở nơi này.
- Bách Bộ Hồng 百步洪: trăm bước đi của cơn mưa lớn (hồng: cơn mưa lớn, nước lũ mạnh, sóng cả, lụt lớn. v.v... Trường hồng: cơn mưa lớn kéo dài)
- đẩu 斗: cái đấu, cao trội, vượt lên, chót vót, sao Đẩu...
- khiêu ba 跳波: sóng nhảy lên, sóng vượt qua....
- đầu thoa: con thoi dệt cửi nhanh chóng ném qua ném lại...
- thủy sư 水師: quan, lính hoặc những người làm việc trên thuyền. Tương tự như thủy binh 水兵, thủy quân 水軍 thủy thủ 水手.
- tuyệt khiếu 絕叫: kêu rống rất lớn...
- tha ma 磋磨: chà xát, cọ mài....
- ưng chuẩn 鷹隼: mũi quặp xuống của con chim ưng.
- tuấn mã 駿馬: ngựa cao lớn đẹp, chạy nhanh, dai sức. Người ta thường gọi là ngựa hay (ngựa giỏi).
- hạ chú 下注: nhìn chăm chú xuống, nhìn kỹ xuống...
- pha 坡: sườn núi, con dốc đứng hoặc nghiêng...
- đoạn huyền 斷絃: dứt bỏ ,rời khỏi dây cung.
- quá khích 過隙: vượt qua khe hở hay lỗ hổng...
- huyễn chuyển 眩轉  xoay vần hay uốn lượn làm hoa mắt (huyễn)...
- phong lược nhĩ 風掠耳: gió lướt nhẹ qua tai.
- lưu mạt 流沫: bọt nước nổi trên mặt nước (mạt) trôi chảy theo dòng nước...
- qua 渦: nước chảy xoáy, xoáy của dòng nước....
- khoái 快: vui thú, sướng thích nhanh chóng thoáng qua, sắc bén, gần, sắp, thẳng thắng....
- thủy bá 水伯: hay còn gọi là Hà Bá là chủ của vùng sông nước hay còn gọi là thần sông.
- thừa hóa nhật dạ thệ 乘化日夜逝: cưỡi trên sự biến hóa của ngày đêm ,của trời đất luôn trôi đi không bao giờ trở lại.... Trong Luận Ngữ, thiên Tử Hãn có câu nói của Khổng Tử: ”Thệ giả như tư phù, bất xả trú dạ” (sông trôi như thế, không ngừng nghỉ đêm ngày)
- nhất niệm 一 念: một suy nghĩ rất nhanh, tương tự như khi nói “nhất niệm khoảnh 一 念 頃” nghĩa là một thoáng chốc, một sát-na như trong cách nói về thời gian của đạo Phật.
- Tân La 新羅: thời nhà Đường và Tống bên T.H, Tân La là một vùng đất của Triều Tiên. Đây chỉ sự xa xôi cách trở nhưng chỉ một niệm là đã đi vượt qua nó, ngày nay tâm lý học gọi là thời gian tâm lý...
- Câu 16: trong sách Tấn Thư, mục Sách Tĩnh truyện có ghi kể rằng : “ Sách Tĩnh có thể đoán trước nhiều việc như khi ông chỉ con lạc đà làm bằng đồng để trước cửa cung Lạc Dương nói là sẽ thấy mày bị bao phủ trong gai góc” ,ám chỉ sự loạn lạc sắp xảy ra.
- Câu 17: giác lai phủ ngưỡng 覺來俯仰: lúc tỉnh lại cúi đầu xuống hay ngẩng đầu lên ngàn kiếp đã mất đi. Tô Đông Pha từng nghiên cứu và thấm nhuần tư tưởng đạo Phật nên dùng hình ảnh này cho thấy đời người chỉ như một sát na mau chóng đi qua, việc cúi xuống hay ngẩng đầu lên trong nháy mắt đã qua đi ngàn kiếp của sự biến hóa vô thường.... (sát-na 剎那 khoảng thời gian cực ngắn của một lần niệm có khoảng 90 sát-na/Ksana -Sankrit).
- uy di 委蛇: quanh co, uốn khúc, vẻ thong dong, thuận theo, vẻ tự đắc, tự cao, khoe khoang...
- ngạn biên 岸邊: bờ rìa ,bờ mép ven bờ của dòng sông...
- cao 篙: sào đẩy thuyền...
- nhãn 眼: mắt, cái hố, cái lỗ, chỗ yếu điểm...
- phong khoa 蜂窠: hang ổ nhiều (như tổ ong), nhiều hang hốc...
- tâm vô sở trụ 心無所住: lấy ý từ Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh: “Tu Bồ Đề! Bồ Tát ư pháp, ưng vô sở trụ hành ư bố thí... (Tu Bồ Đề! Đối với pháp, tâm không trụ vào pháp nào để làm việc bố thí...). Theo tinh thần của Bát Nhã Ba La Mật Tâm Kinh, một kinh
rất quan trọng của Đại thừa của đạo Phật đã nói rằng bậc Bồ Tát nhờ “tâm vô sở trụ” (tâm không có chỗ để bám víu vào) nên đạt đến “vô thượng giác ngộ” nghĩa là đạt đến cõi “vô sở đắc” và “vô sở trước” (tạm dịch là không có chỗ để trụ ,để đắc cũng như không bị ràng
buộc bởi ngũ uẩn nữa). Đó là những vấn đề thâm diệu của người tu đạo và thực sự giác ngộ mới thấu đạt!
- các quy khứ 各歸去: cá : mỗi một, đều. Mỗi người đều về nhà, đều quay trở về...
- sư sở 師 所: nơi chốn, chỗ thấu rõ đạo của bậc chân sư. Ở đây chỉ việc Tô Thức và Đạo Tiệm cùng nhau tranh cãi về nơi chốn an trụ của tâm Bồ Tát, tâm Phật ,tâm của Đại sư (Phật tổ). Đó là một vấn đề liên quan đến sự giác ngộ. Vị “sư” ở đây còn là Đạo Tiệm tức sư Đạo Khiêm , có biệt hiệu là Sâm Liêu Tử, một người bạn thân của Tô Thức.
- a 呵 (ha): ôi thôi, ô hô, ôi! Tiêng kêu lớn trước một sự việc, một câu chuyện đang thảo luận, tranh cãi về chân lý hay một vấn đề nào đó !....

BÀI 7

BÁT NGUYỆT THẬP NGŨ NHẬT KHÁN TRIỀU NGŨ TUYỆT
(Kỳ Tư)                                                                                      八月十五日看潮五絕(期四)

Ngô nhi sinh trưởng hiệp đào uyên,                                          吳兒生長狎濤淵,
Mạo lợi vong sinh bất tự liên.                                                   冒利忘生不自憐。
Đông hải nhược tri minh chủ ý,                                                 東海若知明主意,
Ưng giao xích lỗ biến tang điền.                                               應教斥鹵變桑田。

Dịch nghĩa:

Con của ta sinh ra và lớn lên gần gũi nơi sóng cả vực sâu! Vì lợi đã liều lĩnh xông lên, lãng quên cuộc sống và không thương chính mình.
Biển đông bằng như hiểu được ý của bậc vua sáng suốt, Thuận theo sự sai bảo khiến đất đai mặn chát thành ruộng dâu!

Tạm chuyển lục bát:

THÁNG TÁM NGÀY MƯỜI LĂM XEM NƯỚC THỦY TRIỀU LÀM NĂM BÀI THƠ (Bài thứ tư)

Con ta sinh chốn sóng to,
Dám liều vì lợi quên lo thương mình!
Biển đông biết ý vua minh,
Hòa theo đất mặn biến thành ruộng dâu!

Chú thích:

- tuyệt 絕: có một không hai, tuyệt vời, tuyệt diệu, tuyệt sắc, cạn kiệt , dứt, hết, cực kỳ, chống lại...
- ngũ tuyệt 五絕: thơ ngũ tuyệt hay ngũ ngôn tứ tuyệt là loại thơ chỉ có bốn câu, mỗi câu năm chữ. Ở đây, Tô Thức, nói theo cách của ông, là mình đã làm năm bài thơ đầy cảm hứng rất tuyệt vời cũng gọi là ngũ tuyệt .Bài trên là bài thứ tư.
- hiệp đào uyên 狎濤淵: gần gũi nơi có sóng lớn và vực sâu. Nghĩa là gần với những nơi địa hình hoặc chốn nhiều cạm bẫy gian nan nhiều hiểm nguy.
- vong sinh 忘生: quên lo cuộc sống 
- mạo 冒: xông lên, liều lĩnh, hấp tấp, giả mạo, làm bừa...
- nhược tri 若知: bằng như hiểu biết được, nếu như biết được...
- minh chủ ý 明主意: tấm lòng hay những suy nghĩ của vị vua sáng suốt...
- ưng 應: đáp ứng, hòa theo, thuận theo, thích nghi, ứng theo...
- giao 教: sai bảo truyền khiến, dạy dỗ (giáo), cho phép...
- xích lỗ 斥鹵:khai thác, dò tìm vùng đất mặn khó khai khẩn, trồng trọt ......

BÀI 8

BÁT NGUYỆT THẤT NHẬT SƠ NHẬP CÁM QUÁ HOÀNG KHỦNG THAN                                                                        八月七日初入贛過惶恐灘

Thất thiên lý ngoại nhị mao nhân,                                             七千里外二毛人,
Thập bát than đầu nhất diệp thân.                                              十八灘頭㇐葉身。
Sơn ức Hỉ Hoan lao viễn mộng,                                                山憶喜歡勞遠夢,
Địa danh Hoàng Khủng khấp cô thần.                                      地名惶恐泣孤臣。
Trường phong tống khách thiêm phàm phúc,                            長風送客添帆腹,
Tích vũ phù chu giảm thạch lân.                                               積雨浮舟減石鱗。
Tiện hợp dữ quan sung thuỷ thủ,                                               便合與官充水手,
Thử sinh hà chỉ lược tri tân?                                                      此生何止略知津?

Dịch nghĩa:

Ngườì mang hai thứ tóc đã đi ngoài bảy ngàn dặm. Một thân với một con thuyền nhỏ (như chiếc lá) qua mười tám ngọn thác nước! Nhớ núi Hỉ Hoan (nơi quê nhà) nhọc nhằn với những giấc mộng xa xôi! Vùng đất mang tên Hoàng Khủng đã khóc cho kẻ bầy tôi trơ trọi (c.1-4) Cơn gió cứ mãi thổi tiễn khách lại thổi thêm lên cánh buồm phình thành bụng. Cơn mưa chồng chất làm chiếc thuyền trôi nổi đi qua những hàng đá lớn. Quan tức thời góp sức gánh vác với người làm việc trên thuyền. Cuộc sống này biết nơi nào là bến bờ để dừng lại!? (c.5-8).

Tạm chuyển lục bát:

NGÀY BẢY THÁNG TÁM BẮT ĐẦU VÀO ĐẤT CÁM QUÁ THÁC HOÀNG KHỦNG.

Bảy ngàn dặm, tóc hoa râm,
Thuyền con mười tám thác vần một thân!
Mộng xa, nhớ núi Hỉ Hoan,
Đất tên Hoàng Khủng cô thần lệ tuôn.
Gió lồng tiễn khách căng buồm,
Thuyền trôi mưa khắp bớt vương đá hàng.
Người thuyền cùng góp sức quan,
Đời này bến đậu biết rằng chốn nao?

Chú thích:

- đầu 頭: chóp, đỉnh, ngọn, hạng cao nhất, đầu sỏ, trùm...
- nhất diệp 一葉: một chiếc lá, chỉ con thuyền nhỏ mong manh. Trong bài “Tiền Xích Bích Phú 前赤壁賦” của Tô Thức 蘇軾 có câu: “Giá nhất diệp chi thiên chu, cử bào tôn dĩ tương chúc” 駕一葉之扁舟, 舉匏樽以相屬” nghĩa là: cưỡi một chiếc thuyền con mỏng
manh như chiếc lá ,nâng chén rượu để mời nhau.
- Hỉ Hoan 喜歡: vui mừng thích thú. Đây là tên một ngọn núi nơi quê nhà của Tô Đông Pha (vùng Mi Sơn, Mi Châu nay thuộc tỉnh Tứ Xuyên, Trung Hoa).
- Hoàng Khủng 惶恐: sợ hãi và kinh hoàng. Tên một loạt mười tám thác nước nhiều hiểm nguy ở vùng Cống Châu (nay thuôc tỉnh Giang Tây chảy từ Cống giang) trên đường Tô Thức đi đày sang đảo Hải
Nam.
- khấp 泣: khóc không thành tiếng, khóc thầm, khóc chảy nước mắt...
- trường phong 長風: gió cứ thổi mãi, gió từ xa, gió thổi luôn...
- thiêm 添: tăng lên, thêm vào, gia tăng, sinh con...
- tích 積: gom góp, chồng chất, tích trữ, chất chứa nhiều lên...
- phàm phúc 帆腹: cánh buồm con thuyền khi gió thổi mạnh căng lên (như cái bụng)...
- giảm thạch lân 減石鱗: lân: sắp thành hàng, vảycá, xếp hàng...ác hàng đá, các dãy đá ven bờ, trong cơn mưa lớn ,trông như giảm bớt đi...
- tiện hợp 便合: tức thời ,nay tức thì hợp sức lại...
- sung 充: gánh vác, lấp đầy, tăng cho đủ số, đầy đủ....
- chỉ 止: dừng lại, nghỉ lại, đậu lại, thôi, dáng dấp, cử chỉ, ngăn cấm...
- tri tân 知津: (tân: bờ, bến đậu thuyền.) biết đến bến bờ...

(Lần đến: THƠ TÔ ĐÔNG PHA bài 9, 10, 11)

Dương Anh Sơn


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét