"Chàng từ sang Đông Nam
khởi nẻo.
Biết nay chàng tiến thảo nơi đâu ?
Biết nay chàng tiến thảo nơi đâu ?
Những người chinh chiến bấy lâu
Nhẹ xem tính mệnh như màu cỏ cây."
(Chinh Phụ Ngâm Khúc.)
Nhẹ xem tính mệnh như màu cỏ cây."
(Chinh Phụ Ngâm Khúc.)
Gia đình chúng tôi có 5 anh
em. Tôi và người anh kế xem như cùng trang lứa, tròn trèm nhau 2 năm tuổi cách
biệt. Thành thử ra, suốt quá trình cuộc đời của hai chúng tôi thường gắn bó với
nhau từ thuở ấu thơ, lúc đất nước thanh bình, trong thời chiến khốc liệt cho
đến sau ngày mất nước.
Cuôc sống của chúng tôi đổi
thay kể từ ngày mẹ chúng tôi dắt dìu đàn con từ bỏ vùng quê Tam Kỳ ra định cư
tại Đà Nẵng. Ngày tôi biết được thế giới văn minh là ngày gia đình chúng tôi
ghé lại Hội An trên đường ra Đà Nẵng, lần đầu tiên thấy được chiếc xe hơi, đó
là những chiếc xe GMC của Quân đội Quốc gia thỉnh thoảng chạy vù qua trước nhà
chúng tôi tạm trú. Cứ mỗi khi nghe tiếng xe hơi là chúng tôi thế nào cũng chạy
ra đứng nhìn với vẻ thích thú.
Đà Nẵng, Thành phố mà tôi đã
cùng chung sống với ông anh này từ khi còn bé cho đến lúc tôi vào Saigon. Cha
mất lúc tôi lên 7, mẹ tôi một mình bươn chải để nuôi đàn con 5 đứa. Vài năm sau
người anh cả vào tận Saigon tìm tương lai qua đường tự lập. Còn lại 4 anh em,
hai em gái cách biệt tuổi nhỏ nên ít chơi chung, chúng tôi 2 đứa con trai cặp
kè cùng nhau từ thuở đó.
Thấy mẹ tôi vất vả hàng ngày
cho sinh kế gia đình, ông nội tôi khi đó ở riêng xóm nhà phía sau, đứng ra lo
cho chúng tôi về mặt tinh thần. Việc đầu tiên, Nội cho 2 anh em tôi vào học
trường làng do chính nội lập ra và đứng dạy một mình. Trường làng của nội tôi có
đủ các trình độ cấp sơ và Tiểu học, tổng số học trò được khoảng một vài mươi.
Song song đó, nội gởi chúng tôi vào sinh hoạt trong Gia Đình Phật Tử Hòa Thuận,
để hiểu chút ít về những lời Phật dạy, theo như lời ông Nội ngày xưa thường
nói...
Anh và tôi hàng ngày băng
ruộng cắp sách đến trường, cuối tuần đến chùa Vu Lan sinh hoạt chung với các
bạn Thanh thiếu niên Phật Tử. Tuổi ấu thơ của chúng tôi quanh quẩn từ ngã ba
Kho Dầu lên đến Chợ Mới, từ các đám ruộng rau muống sau nhà, qua chùa Vu Lan,
đến trường làng của Nội. Sau này khi trường Tiểu học Hòa Vang khai trương, nội
gởi chúng tôi vào tiếp tục học tại đây cho có "bằng cấp" với người
ta! Nội nói như vậy!...
Anh tôi học trên tôi hai
lớp.Thỉnh thoảng trong giờ ra chơi, anh thường ra oai với mấy thằng bạn lớn đôi
ba lần ăn hiếp tôi. Đó là khoảng thời gian êm đềm nhất của tôi. Hai anh em cùng
bọn trẻ trong xóm, mỗi buổi chiều kéo nhau ra đá banh tại các đám ruộng cỏ mọc
lởm chởm, ghồ ghề gần cầu De Latte. Có nhiều lần, anh dẫn tôi "phiêu lưu"
dọc theo con đường Đò Xu đất đỏ, ngược dòng sông Hàn, đến tận bến đò Xu, nơi có
cây đa già mà dân chúng quanh vùng cho rằng linh thiêng lắm! Cây Đa già phủ
tàng bóng mát rộng lớn, giữa thân cây ai kia đóng vài kệ gỗ nhỏ trên có vài
bình đựng nhang sứt mẻ, chỉ còn trơ lại một ít cọng nhang màu đỏ cắm trong
bình, hợp với những giây leo của cành đa rủ xuống, trông rất nặng phần cõi âm.
Hết bậc Tiểu học, anh tôi vào
Trung học qua các trường Tây Hồ và Sao Mai. Hai năm sau tôi theo gót anh, nhưng
may mắn vào được trường Phan Châu Trinh. Thời gian này, không gian của chúng
tôi mở rộng về hướng Đông qua Biển Mỹ Khê, Tiên Sa, hướng Bắc: Nam Ô, đèo Hải
Vân, hướng Tây: Phước Tường, Túy Loan, và hướng Nam: Cẩm Lệ, Non nước, Miếu
Bông, có khi đến tận Vĩnh Điện, Hội An.
Bạn bè của anh cũng là bạn bè
tôi, và đám bạn của tôi cũng là bạn của anh. Chúng tôi chơi chung với nhau rất
đề huề, không kể lớn nhỏ, tuổi tác chênh lệch. Thường thì sân bóng rỗ tại sân
trường Thọ Nhơn gần nhà là điểm hẹn cuối tuần của cả bọn. Hè thì tụ điểm là các
bãi biển Thanh Bình, Mỹ Khê, Tiên Sa...
Sau khi đậu Tú Tài, anh đi
làm để giúp thêm sinh kế cho gia đình trong khi chờ lệnh nhập ngũ. Năm 1967 tôi
khăn gói vào Saigon tiếp tục đường công danh qua đèn sách. Ngày tôi ra đi, anh
đưa tôi lên phi trường Đà Nẵng và gởi cho tôi đi nhờ phi cơ Quân sự của một ông
lái tàu bay bạn anh. Năm 1968 anh vào Quân trường Thủ Đức. Tôi lên xuống thăm
viếng anh từ Quang Trung đến Thủ Đức vào thời gian đầu mỗi khóa thụ huấn. Chủ
nhật, trong bộ đồ Kaki màu vàng với cầu vai Alpha của Sinh Viên Sĩ Quan, anh
cùng tôi lang thang khắp Saigon, Chợ lớn cho hết trọn ngày phép, đến chiều anh
theo đoàn xe trở lại Quân trường. Mãn khóa, anh tình nguyện vào Sư Đoàn Nhảy
Dù. Cuộc đời lính chiến của anh bắt đầu từ đây. Tiểu Đoàn đầu tiên anh phục vụ
là Tiểu Đoàn 7 Dù, hậu cứ tại Tam Hiệp, Biên Hòa. Anh đeo lon Chuẩn Úy. Thời
gian đầu tôi thường đến thăm anh tại dưới chân cầu Phan thanh Giản gần Hàng
Xanh Xa lộ, hay dọc theo bờ sông Saigon trước Viện bào chế Nguyễn Chí Nhiều,
lúc anh nắm Trung đội Dù chốt tại mấy nơi này.
Đất nước chiến tranh triền
miên. Trời Saigon mưa giăng nắng đổ, cũng giống như đời lính của anh. Anh đi
rồi anh về, anh về rồi lại đi. Tôi vẫn miệt mài trong giảng đường Đại học, anh
vẫn lăn lộn qua khắp chiến trường đất nước. Quê nhà thì xa xôi quá! Người anh
cả đóng trên Cao nguyên. Mẹ và hai em vẫn còn ở ngoài Trung... Mỗi lần Tiểu
đoàn về hậu cứ,với vài ngày phép ngắn hạn, tôi là người anh tìm đến trước tiên.
Tôi giao cho anh chiếc xe Honda của tôi, anh đi gặp bạn bè đâu đó, có khi vài
hôm. Xong chuyện anh, hai anh em mới cùng nhau lang thang khắp Saigon, điểm tâm
tại quán Thanh Bạch. Xi Nê Rex, Eden. Khô bò và nước mía Viễn Đông, kem Mai
Hương, phở Pasteur, Hiền Vương, mì xào Hải Ký Tổng Đốc Phương, chúng tôi cũng
thường đi tìm mua sách cũ tại các lều sách trên đường Lê Lợi hay khu ngã tư Lê
văn Duyệt và Hồng Thập Tự.
Trước mỗi lần hành quân xa,
anh đưa cho tôi hết số tiền lương anh lãnh còn lại. Tôi gởi tiền vào Ngân hàng,
đến khi anh về. tôi giao trả lại anh để hai anh em xài chung... Rồi bẵng đi một
thời gia lâu, rất lâu, tôi không thấy anh về. Chờ đợi và chờ đợi. Sau đó tôi
nhận được tin anh đang nằm tại Tổng Y Viện Cộng Hòa. Anh đã bị thương tại chiến
trường Mỏ Vẹt trong trận hành quân truy kích Việt Cộng tận mật khu của chúng
trên đất Miên. Nhìn anh trong đôi nạng gỗ qua vết thương còn băng bó, thấy anh
mỉm cười khi có người đến thăm anh độc nhất là thằng em trai của anh. Phải, chỉ
có hai anh em ở Saigon. Hai anh em níu nhau như chuỗi ngày còn thơ lúc nào cũng
chơi chung cùng nhau. Sau thời gian nghỉ dưỡng thương, anh tạm về Trung Tâm
Huấn Luyện Dù trại Hoàng Hoa Thám.
Tôi cũng được vào ra doanh
trại này trong thời gian anh làm việc tại đây. Cuộc chiến càng khốc liêt, anh
lại càng gian truân. Lần này anh được chuyển qua Tiểu Đoàn 5 Dù. Anh đưa Bằng
Dù của anh cho tôi cất giữ, rồi theo Tiểu Đoàn đi ra Trung mút mùa. Qua báo chí
tôi biết được anh và đồng đội đang quần thảo với địch tại vùng núi Hải Vân, Quế
Sơn, Thượng Đức, quê hương Quảng nam của chúng tôi. Chả bao giờ anh viết thơ
cho gia đình biết tin của anh.
Anh vẫn độc thân nên đời anh
như cánh dù lộng gió. Theo thời gian và chiến tích, trên cổ áo trận của anh
được gắn thêm một bông mai, hai bông mai, rồi ba bông mai. Cứ mỗi lần anh về
thì hai anh em lại tiêu khiển quanh quẩn khắp Saigon cho đến ngày hết phép, anh
lại vui vẻ ra đi, cứ thế anh trải qua bao năm lăn lộn trên khắp chiến trường
đất nước.
Saigon lúc bấy giờ các nhật
báo được phát hành vào mỗi cuối buổi chiều của ngày. Từ sở làm ra, tôi mua vội
vài tờ báo quen thuộc. Về nhà việc đầu tiên là tìm tin chiến sự đọc trước. Tôi
âm thầm theo dõi bước chân anh qua tin tức và các bài phóng sự Chiến trường
trên báo chí Saigon. Mỗi khi nghĩ đến câu: "Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi" của một nhà thơ Trung Hoa đời
Đường nào đó. Thì lòng lại thấy băn khoăn nhớ về anh. Vào những ngày cuối tháng
3/1975, nóng lòng, tôi đã lái xe lên tận hậu cứ Tiểu Đoàn 5 Dù ở Biên Hòa để
hỏi thăm tin tức, nhưng không ai biết tin gì về Tiểu đoàn của anh lúc này.
Rồi cuộc chiến bỗng chấm dứt.
Anh đã trở về tuy thân thể toàn vẹn, nhưng bị vết thương lớn trong lòng, đó là
sự uất ức của người lính khi bị bắt buộc phải buông súng. Cuối cùng, chung với
đồng đội, anh đã bị lùa vào trại tù tập trung trên vùng núi Bắc Việt. Sau bao
nhiêu năm ở tù mà không tội, anh đã trở về trong thân xác rã rời, với một tâm
hồn trầm mặc. Và hai anh em lại đoàn tụ cùng nhau tại Saigon trong cùng một tâm
trạng.
Cũng may nhờ một cơn gió từ
phương Tây đã đã lộng thổi vào chiếc dù tưởng như đã rã cánh của anh, đã mang
gia đình anh đến tận xứ Hoa Kỳ tự do và an bình.
Hôm nay vào
Website "Nhảy Dù", được đọc bài của Trung tá Bùi Quyền kể lại trận
đánh của Tiểu đoàn 5 Dù tại mặt trận Khánh Dương, tôi viết vài dòng để nhớ về
anh. Mới đó mà đã gần 40 kể từ ngày mất nước. Thời gian qua mau thật! Anh tôi
cũng sắp vào tuổi mà người xưa gọi là "Thất
thập cổ lai hy". Bạn bè năm xưa nhìn lại thấy đứa còn đứa mất. Tuy
sống ở hai lục địa khác nhau, nhưng qua những kỷ niệm ngày xưa cùng anh tại Đà
nẵng và Saigon, tôi luôn luôn cảm nhận được sự gần gũi bên người anh là lính
Nhảy Dù của tôi.
Hoàng Bá Nhứt
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét