Bài 17:
ĐĂNG KIM LĂNG PHỤNG HOÀNG ĐÀI 登金陵鳳凰臺
Phụng Hoàng đài thượng, phụng hoàng du, 鳳凰臺上鳳凰遊,
Phụng khứ đài không,
giang tự lưu. 鳳去臺空江自流。
Ngô cung, hoa thảo mai
u kính, 吳宮花草埋幽徑,
Tấn đại, y quan thành
cổ khâu. 晉代衣冠成古丘。
Tam Sơn bán lạc thanh
thiên ngoại, 三山半落青天外,
Nhị thủy trung phân
Bạch Lộ châu. 二水中分白鷺洲。
Tổng vị phù vân năng
tế nhật,
總為浮雲能蔽日,
Trường An bất kiến sử
nhân sầu.
長安不見使人愁。
Lý Bạch 李白
Dịch nghĩa:
Lên đài Phượng Hoàng ở Kim Lăng.
Trên đài Phượng Hoàng đã có lúc chim phượng hoàng đến chơi. Từ khi chim phượng
ra đi, đài đã vắng tăm, sông trôi lững lờ. Cung điện vua Ngô hoa cỏ mọc che lấp
lối đi nhỏ hẹp tối mờ. Áo mũ của triều đại (Đông) Tấn giờ đã thành gò đất xưa
cũ! Dãy Tam Sơn với nửa khoảnh trời xanh rơi rụng ngoài xa. Bãi bồi Bạch Lộ ở
giữa chia đôi dòng sông thành hai nhánh (Tần và Hoài). Mặt trời bị che khuất
tất cả do bởi những đám mây trôi nổi. Không thấy được kinh đô Trường An khiến
cho lòng người phải buồn sầu.
Tạm chuyển lục bát:
LÊN ĐÀI PHƯỢNG HOÀNG Ở
KIM LĂNG.
Phượng hoàng, đài Phượng
đến chơi,
Phượng đi, đài vắng sông trôi lững lờ!
Cung Ngô hoa cỏ lối mờ,
Y quan đời Tấn thành gò đất xưa.
Tam Sơn xanh nửa trời kia,
Bãi bồi Bạch Lộ chia dòng thành đôi.
Khuất che mây nổi mặt trời,
Trường An nào thấy khiến người sầu vương.
Chú thích:
- Kim Lăng 金陵: vùng đất cổ xưa ở Nam Kinh, Giang Tô, Trung
Hoa nơi nhiều triều đại vua chúa T. H. thời Lục Triều được tạo dựng trên vùng
đất này.
- Phụng Hoàng Đài 鳳凰臺: nằm phía nam huyện Giang Ninh, Giang Tô,
thành Nam Kinh. Sách Giang Nam Thống Chí có ghi lại đời Tống Văn Đế thời Nam
Triều bên Trung Hoa có con chim lông năm màu đến đậu trên gò núi Kim Lăng mấy
ngày. Lúc chim kêu lên và xòe cánh múa thì các loài chim khác cùng múa theo nên
người đời gọi là chim phượng hoàng. Vua Tống Văn Đế cho đó là điềm lành nên đặt
tên gò núi đó là Phụng Hoàng và cho xây đài gọi là Phụng Hoàng Đài trên núi để
kỷ niệm.
- Ngô cung吳宮: cung do Ngô Tôn Quyền xây dựng ở Kim Lăng.
- mai u kính 埋幽徑: mai: bị lấp, che khuất; lối đi nhỏ hẹp bị
che lấp tối tăm.
- Tấn đại 晉代: đây chỉ triều đại Đông Tấn thuộc thời
"Tam Quốc, lưỡng Tấn, Nam Bắc Triều" bên Trung Hoa với sáu triều đại
thay nhau đóng đô ở Kiến Khang nay là Nam Kinh.
- Tam Sơn 三山: dãy núi phía nam
thành Nam Kinh.
- lạc 落: rơi rụng, suy tàn, bỏ phế, lúc bắt đầu, chỗ ở đông đúc...
- Nhị Thủy 二水: tên hai nhánh sông tên Tần và Hoài phát
nguyên từ dãy Tây Sơn đến Kiến Khang gặp bãi Bạch Lộ thì chia làm hai nhánh.
- Bạch Lộ châu 白鷺洲: tên một bãi cát bồi thường có những đàn cò
trắng trú ngụ (lộ: con cò) nằm giữa hai nhánh sông Tần và sông Hoài. Dòng sông
chảy đến gặp bãi bồi chia hai nhánh: một chảy vòng quanh thành Nam Kinh, một
nhánh chảy qua trong thành
- tế 蔽: che chở, che khuất....
- Trường An長安: xem C.T. bài 4 (Tử Dạ thu ca) ở trên.
Bài 18:
NAM SƠN
南 山
Xuất môn kiến Nam
Sơn, 出 門 見 南 山
Dẫn
lãnh vô ý hạn.
引 嶺 意 無 限
Tú sắc nan vi danh,
秀 色 難 為 名
Thương thúy nhật tại nhãn.
蒼 翠 日 在 眼
Hữu thời bạch vân khởi,
有 時 白 雲 起
Thiên tế tự thư quyển.
天 際 自 舒 捲
Lý Bạch
李白
Dịch nghĩa:
Núi phía Nam.
Đi ra cửa thấy Nam Sơn. Dãy núi đã mở ra không biết bao nhiêu là ý nghĩ. Vẻ đẹp
khác thường của dãy núi khó để gọi tên. Trong mắt hằng ngày là màu xanh của cỏ
non và màu xanh biếc. Có khi mây trắng nổi lên tự mình giăng ra và cuộn lại ở
ven trời.
Tạm chuyển lục bát:
NAM SƠN.
Đi ra cửa thấy núi Nam,
Dãy non mở ý mênh mang dạt dào.
Gọi tên vẻ đẹp khó sao!
Hằng ngày trong mắt sắc màu biếc xanh.
Có khi mây trắng nổi lên,
Tự mình cuốn lại, ven trời duỗi giăng.
Chú thích:
- Nam Sơn 南 山: là dãy núi Chung Nam, nằm phía nam Trường An,
Thiểm Tây, Trung Hoa.
- dẫn 引: mở ra, dẫn dắt, dẫn lối, đưa đường, lùi lại, tiếp tục...
- lãnh 嶺: sườn núi, dãy núi, đường đi trong núi.
- tú sắc 秀 色: vẻ đẹp khác thường, màu của bông lúa trổ hay
bông cỏ.
- thương thúy 蒼 翠: màu xanh của cây cỏ và màu xanh biếc
- thiên tế 天 際: ven trời.
- thư 舒: duỗi ra, chậm rãi, giăng ra, mở ra. . .
- quyển 捲: cuốn lại, cuốn thu lại.
Bài 19:
XUÂN NHẬT TÚY KHỞI NGÔN CHÍ.
春日醉起言志
1 Xử thế nhược đại mộng, 處世若大夢,
Hồ vi lao kỳ sinh?
胡為勞其生?
Sở dĩ chung nhật túy,
所以終日醉,
4
Đồi nhiên ngọa tiền doanh.
頹然臥前楹。
Giác lai miện đình tiền,
覺來眄庭前,
Nhất điểu hoa gian minh.
一鳥花間鳴。
Tá vấn thử hà nhật?
借問此何日?
8
Xuân phong ngữ lưu oanh. 春風語流鶯。
Cảm chi dục thán tức,
感之欲嘆息 .
Đối tửu hoàn tự khuynh.
對酒還自傾,
Hạo ca đãi minh nguyệt,
浩歌待明月,
12 Khúc
tận dĩ vong tình.
曲盡己忘情。
Lý Bạch
李白
Dịch nghĩa:
Uống say ngày xuân, tỉnh dậy nói chí mình.
Ở đời giống như giấc mộng lớn. Cuộc sống làm chi cho nhọc nhằn, vất vả!? Cho nên
suốt cả ngày (ta) say mèm nằm li bì lăn quay trước cây cột của gian
nhà. Lúc tỉnh dậy chớp mắt nhìn trước sân nhà: một con chim hót vang trong
khóm hoa; (Ta) thử hỏi hôm nay là ngày nào mà nghe trong gió xuân có tiếng líu
lo, ríu rít trò chuyện của con chim oanh!? Ta cảm thấy xúc động muốn than
thở. Nhưng đứng trước cảnh ấy lại tự mình nghiêng bầu rượu uống ngả
nghiêng. Ta cất tiếng hát lớn đợi chờ vầng trăng sáng. Ca hết khúc hát thì đã
quên đi tình cảm xúc động ấy rồi
Tạm chuyển lục bát:
NGÀY XUÂN TỈNH RƯỢU, NÓI
CHÍ MÌNH.
1
Ở đời như mộng lớn thôi,
Làm chi vất vả cuộc đời lắm thay!
Nên đà say khướt suốt ngày,
4
Li bì túy lúy nằm ngay cột nhà.
Tỉnh người, sân trước nhìn ra,
Con chim hót giữa khóm hoa vang
lừng.
Ngày nào đây, thử
hỏi rằng,
8 Chim oanh trò
chuyện rộn ràng gió xuân.
Trào dâng cảm xúc, thở than,
Nghiêng bầu trước cảnh rượu tràn lại tuôn!
Hát to , trăng sáng chờ buông,
12 Hát ca hết
khúc ,quên không còn tình!
Chú thích:
- khởi 起: đứng dậy, ngủ dậy, nổi lên, mở đầu...
- xử thế 處世: ở nơi cõi đời, ở đời, quay trở về với cuộc
đời...
- nhược 若: như, giống như, dường như, bao nhiêu, giả sử, nếu, hoặc, thuận theo...
- hồ vi 胡為: làm sao vậy, làm chi thế.
- chung nhật 終日: suốt cả ngày, hết ngày.
- đồi nhiên 頹然: do câu "Đồi nhiên túy ngọa" 頹然醉臥 chỉ người uống quá
say nằm li bì hoặc kẻ thất chí.
- doanh 楹: gian nhà, cột nhà thẳng đứng.
- giác 覺: tỉnh, tỉnh táo, hiểu biết, tỉnh dậy.
- miện 眄: liếc mắt nhìn, chớp mắt, trông, nhìn ra...
- tá vấn 借問: thử hỏi, hỏi thăm, xin hỏi...
- ngữ lưu oanh 語流鶯: tiếng chim oanh kêu như trò chuyện líu lo, ríu
rít...
- khuynh 傾: nghiêng, đổ lật. Do đó, có thể hiểu ở đây
theo hai nghĩa: tác giả lại uống cho say nên nghiêng ngả; hoặc tác giả lại
(hoàn) nghiêng bầu rượu rót uống cho say túy lúy!
- hạo ca 浩歌: ca hát lớn giọng
Dương Anh Sơn
(lần đến Thơ Lý Bạch: bài 20, 21, 22 )
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét