Thứ Hai, 29 tháng 1, 2024

Thơ Đỗ Phủ - Bài 68, 69 Và 70

 


THƠ ĐỖ PHỦ - BÀI 68, 69 VÀ 70
Thầy Dương Anh Sơn

BÀI 68

TUYỆT CÚ TỨ THỦ KỲ TAM                                                絕句四首其三

Lưỡng cá hoàng ly minh thúy liễu,                                            兩個黃鸝鳴翠柳,
Nhất hàng bạch lộ thướng thanh thiên.                                      ㇐行白鷺上青天。
Song hàm Tây Lĩnh thiên thu tuyết,                                          窗含西嶺千秋雪,
Môn bạc Đông Ngô vạn lý thuyền.                                            門泊東吳萬里船。
Đỗ Phủ (năm 765)                                                                    杜甫

Dịch nghĩa:

Hai con chim hoàng anh hót nơi đám liễu xanh biếc – Một hàng những con cò trắng bay lên bầu trời xanh – Song cửa (như) ôm giữ tuyết ngàn năm của ngọn Tây Lĩnh – Ngoài cửa ,những con thuyền Đông Ngô đậu lại dài tới cả vạn dặm!

Tạm chuyển lục bát:

TUYỆT CÚ BÀI THỨ TƯ LẦN BA

Hót đôi - liễu biếc - oanh vàng,
Trời xanh cò trắng một hàng vút bay.
Tuyết ngàn thu, cửa núi Tây,
Cửa ngoài muôn dặm đậu dày thuyền Ngô!

Chú thích:

- tuyệt cú 絕句: bài thơ có bốn câu còn gọi là tứ tuyệt 四絕 thường là những tứ thơ, câu cú hay ho ,được lựa chọn và đầy cảm hứng của người làm ra. Câu thơ có bảy chữ gọi là thất tuyệt 七絕. Câu có năm chữ gọi là ngũ tuyệt 五絕.
- tứ thủ 四首: một bài thơ, một bài văn, một thiên truyện... v.vv... gọi là nhất thủ ㇐首. Đây là bài thơ thứ tư trong loạt thơ đã gây niềm cảm hứng cho tác giả.
- cá 個: con, cái, quả....
- hoàng ly 黃鸝: chim hoàng anh, vàng anh, chim oanh.
- câu 2: một số tư liệu ghi là:” Sổ hàng 數行” (mấy hàng) chứ không phải “nhất hàng”. Có lẽ chữ “ Nhất hàng ㇐行” đối với chữ “Lưỡng cá 兩個” bên trên cân xứng hơn!
- song hàm 窗含: cửa sổ như ôm giữ ,cửa sổ như nuốt trọn...
- Tây Lĩnh 西嶺: nằm trong dãy núi Nga Mi bên Trung Hoa, là ngọn núi cao, tuyết phủ quanh năm.
- bạc: nơi thuyền ghé nghỉ lại, ghé vào, tạm nghỉ ngơi...
- Đông Ngô 東吳: Đông Ngô (229-280) hay còn gọi là Tôn Ngô 孫吳 là một trong ba nước thời Tam quốc bên T.H gồm Tào Ngụy, Thục Hán và Đông Ngô. Đông Ngô trở thành một nước lớn thời Tam Quốc khi Tôn Quyền tự xưng là hoàng đế chiếm một vùng rộng lớn ở phía đông và phía nam như Giang Đông, Kinh Châu, Giao châu (nước Việt ngày xưa)... Có khi gọi Đông Ngô là Tôn Ngô (nước Ngô thời Tôn Quyền) để phân biệt các nước Ngô thời Xuân Thu hay Ngô Việt thời Ngũ Đại trước CN.

BÀI 69

GIANG NAM PHÙNG LÝ QUY NIÊN                                   江南逢李龜年

Kỳ vương trạch lý tầm thường kiến,                                          岐王宅裏尋常見,
Thôi Cửu đường tiền kỷ độ văn.                                                崔九堂前幾度聞。
Chính thị Giang Nam hảo phong cảnh ,                                    正是江南好風景,
Lạc hoa thời tiết hựu phùng quân.                                             落花時節又逢君。
Đỗ Phủ (năm 770)                                                                    杜甫

Dịch nghĩa:

Lúc ở trong nhà Kỳ Vương vẫn thường thấy – Lúc ở nhà Thôi Cửu trước đây đã bao nhiêu lần nghe (về ông ấy) – Đúng là ở Giang Nam phong cảnh tốt đẹp – Khi tiết trời hoa rụng lại thêm lần gặp ông nữa!

Tạm chuyển lục bát:

GẶP LÝ QUY NIÊN Ở GIANG NAM

Nhà Kỳ Vương, thấy ở trong!
Nhà Thôi Cửu lại nghe ông bao lần!
Đúng là cảnh đẹp Giang Nam,
Tiết trời hoa rụng thêm lần gặp ông!

Chú thích:

** Lý Quy Niên là một nhạc công đời Đường Huyền Tông. Ông rất rành về âm nhạc cung đình và các âm luật; cùng với Tôn đại nương là một nữ nhân rất giỏi múa ca thường được vua Đường yêu chuộng và mời trình diễn trong cung vua. Về sau lưu lạc ở vùng Giang Nam thường đàn những khúc nhạc làm cho người nghe xúc cảm....
- trạch lý 宅裏: bên trong nhà ở hay dinh phủ...
- tầm thường kiến 尋常見: vẫn thường gặp gỡ, vẫn hay gặp mặt...
- đường 堂: gian nhà chính giữa dung tiếp khách hay làm lễ (lễ đường), rưc rỡ, trang trọng (đường đường, đường hoàng...), cách gọi người mẹ của người quý phái hay có thứ bậc cao (tôn đường, lệnh đường...), chỗ núi bằng phẳng ,tên gọi các tiệm buôn của người Trung Hoa (VD: An Sinh Đường, Vạn Hoa đường)...
- kỷ độ văn 幾度聞: nghe tiếng tăm rất nhiều lần...
- thời tiết 時節: tiết trời ,sự thay đổi của tiết trời...
- hựu 又: lại, thêm lần nữa, lại nữa...

BÀI 70

TÚC PHỦ 宿府

Thanh thu mạc phủ tỉnh ngô hàn,                                              清秋幕府井梧寒,
Độc túc giang thành lạp cự tàn.                                                 獨宿江城蠟炬殘。
Vĩnh dạ giốc thanh bi tự ngữ,                                                    永夜角聲悲自語,
Trung thiên nguyệt sắc hảo thuỳ khan.                                      中天月色好誰看。
Phong trần nhẫm nhiễm âm thư tuyệt,                                       風塵荏苒音書絕,
Quan tái tiêu điều hành lộ nan.                                                  關塞蕭條行路難。
Dĩ nhẫn linh sính thập niên sự,                                                  已忍伶俜十年事,
Cưỡng di thê tức nhất chi an.                                                     強移棲息㇐枝安。
Đỗ Phủ (năm 764)                                                                    杜甫

Dịch nghĩa:

Nơi doanh trướng của tướng soái vào mùa thu trong lắng, cây ngô đồng bên giếng lạnh lẽo. – Một mình nghỉ lại nơi thành trì cạnh dòng sông, cây đuốc sáp đã tàn lụi – Trong đêm dài, từ tiếng tù và đã thổi ra những lời ai oán ,sầu não – Ai là người ngắm nhìn vẻ đẹp của vầng trăng giữa bầu trời đây? (c.1-4)
Thời buổi gió bụi gian khổ thấm thoắt, chẳng nghe tiếng tăm tin tức thư từ gì cả! – Vùng biên ải vắng vẻ xơ xác, đường đi gian nan khó khăn. – Đã chịu đựng chuyện lênh đênh, trôi dạt vật vờ là việc của mười năm rồi!- Gắng gượng dời chuyển chỗ nghỉ lại để có một nhánh cây an lành (c.5-8).

Tạm chuyển lục bát:

NGHỈ LẠI Ở PHỦ QUAN

Giếng thu dinh lạnh ngô đồng,
Một mình nghỉ lại thành sông đuốc tàn.
Đêm dài sầu thảm còi vang!
Giữa trời trăng đẹp ai đang ngắm nhìn?
Trải cơn gió bụi vắng tin,
Đường đi gian khó ,biên thùy xác xơ!
Mười năm chịu đựng vật vờ,
Gượng dời yên nghỉ chơ vơ một cành!

Chú thích:

- mạc phủ 幕府: nơi doanh trướng hay dinh phủ của tướng soái làm việc bên ngoài, cũng chỉ quan lại trong mạc phủ...
- ngô 梧: tức cây ngô đồng 梧桐, nước ta vẫn gọi là cây
vông.
- lạp cự 蠟炬: cây đuốc bằng sáp.
- giốc thanh 角聲: âm thanh, tiếng phát ra từ chiếc tù- và làm bằng sừng trâu để điểm canh của lính gác thành ban đêm.
- bi tự ngữ 悲自語: lời ai oán, sầu thảm phát ra từ đó.
- thùy khan 誰看: ai là người ngắm nhìn đây?
- phong trần 風塵: gió bụi, hình ảnh để chỉ nỗi gian khó, vất vả trong cuộc sống.
- nhẫm nhiễm 荏苒: thấm thoắt, trải qua bao việc...
- âm thư tuyệt 音書絕: tuyệt nhiên không thấy tiếng tăm của tin tức hay thư từ gì cả!
- quan tái 關塞: ngoài biên giới ,nơi có cửa ải, thành lũy chốn biên thùy ngăn cách với nước khác.
- tiêu điều 蕭條: xơ xác, hoang vắng, lạnh lẽo....
- dĩ nhẫn 已忍: đã chịu đựng, đã nhẫn nhịn...
- linh sính 伶俜: chơi vơi ,chơ vơ ,lênh đênh khổ sở lại trơ trọi, đơn độc ,lẻ loi ( linh đinh cô khổ 伶仃孤苦), cuộc sống không cân bằng, đơn độc, khổ sở (có khi viết là linh binh: cuộc sống phiêu dạt, bấp bênh và cô đơn)...
- cưỡng di 強移: chuyện dời đổi, chuyển đi nơi khác rất miễn cưỡng ,gắng gượng ,gượng ép...
- thê tức 棲息: chim đậu lại ,nghỉ lại để thở, để lấy sức...
- nhất chi an ㇐枝安: một cành cây an lành. Trong câu cuối của bài thơ , Đỗ Phủ ví cuộc sống của mình như cánh chim mệt mỏi thường cần một chỗ nghỉ lại khi chiều tối (thê) nơi có nhánh cây an lành....

(Lần đến: THƠ ĐỖ PHỦ - bài 71 ,72 và 73)

Dương Anh Sơn


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét