THƠ TÔ ĐÔNG PHA - BÀI 9, 10 VÀ 11
Thầy Dương Anh Sơn
THƠ TÔ ĐÔNG PHA
Bài 9
ĐỘC MẠNH GIAO THI (KỲ NHẤT) 讀孟郊詩(其㇐)
Dạ độc Mạnh Giao thi, 夜 讀孟郊詩,
Tế tự như ngưu mao. 細字如牛毛。
Hàn đăng chiếu hôn hoa, 寒燈照昏花,
Giai xứ thời nhất tao. 佳處時㇐遭。
Cô phương trạc hoang uế, 孤芳擢荒穢,
Khổ ngữ dư Thi Tao. 苦語餘詩騷。
Thủy thanh thạch tạc tạc, 水清石鑿鑿,
Thoan kích bất thụ cao. 湍激不受篙。
Sơ như thực tiểu ngư, 初如食小魚,
Sở đắc bất thường lao. 所得不償勞。
Hựu tự chử bành việt, 又似 煮蟛越,
Cánh nhật tước không ngao. 竟日嚼空螯。
Yếu đương đấu tăng thanh, 要當鬥僧清,
Vị túc đương Hàn hào. 未足當韓豪。
Nhân sinh như triêu lộ, 人生如朝露,
Nhật dạ hỏa tiêu cao. 日夜火消膏。
Hà khổ tương lưỡng nhĩ, 何苦將兩耳,
Thính thử hàn trùng hào. 聽此寒蟲號。
Bất như thả trí chi, 不如且置之,
Ẩm ngã ngọc sắc lao. 飲我玉色醪。
Tô Đông Pha 蘇東坡
Dịch nghĩa:
Ban đêm, đọc thơ của Mạnh Giao, chữ viết nhỏ như lông con trâu. Những bông hoa lúc sẩm tối được chiếu sáng bởi cây đèn lạnh lẽo! Có khi gặp được chỗ hay ho, đẹp đẽ. (c.1-4)
Hoa thơm một mình nhấc lên từ đám cỏ hoang bẩn thỉu, lời (thơ) cay đắng ,khó nghe ngoài cuốn Kinh Thi hay Ly Tao. Nước trong trẻo dội ào vào đá! Nước chảy xiết bắn lên cao, không cần lấy sào đẩy thuyền! (c.5-8)
Mới đầu tựa như ăn con cá nhỏ, chỗ được chẳng bù công sức bỏ ra! Lại giống như luộc con còng cố vượt qua (cái nồi nấu), trọn ngày nhai gặm cái càng của con còng trống rỗng! (c.9-12)
Phần xứng đáng rốt cùng là việc đấu tranh với sự thanh cao của các vị sư tăng! Chưa ngang tầm với người có tài họ Hàn! Đời người như hạt sương buổi sớm mai, ngày đêm đốt cháy tiêu tan dầu mỡ! (c.13-16)
Vì sao lại làm khổ đôi tai? Tai này lạnh run với tiếng côn trùng kêu gào! Không gì bằng hãy tạm bỏ cho xong, uống rượu đục trong chén ngọc đẹp đẽ của ta! (c.17-20)
Tạm chuyển lục bát:
ĐỌC THƠ CỦA MẠNH GIAO (Bài 1)
Thơ Mạnh Giao, đọc đêm hôm,
Chữ thì nhỏ xíu như chòm lông trâu!
Đèn soi hoa tối lạnh sao,
Chỗ hay ,cái đẹp gặp nhau một thời.
Hoa thơm hoang bẩn lẻ loi,
Thi Tao thừa lại những lời đắng sao!
Nước trong dội đá trắng phau,
Bắn lên chảy xiết có đâu dùng sào!
Như ăn cá nhỏ lúc đầu,
Chỗ Ơm được chẳng bù vào: toi công!
Lại như luộc chín con còng,
Suốt ngày nhai gặm rỗng không cái càng!
Mong tranh trong sạch với tăng!
Cái “hào” chưa đủ sánh ngang họ Hàn.
Đời như sương sớm tỏa lan,
Mỡ màng lửa cháy tiêu tan đêm ngày.
Cớ sao làm khổ đôi tai,
Côn trùng gào khóc, tai đây lạnh người.
Sao bằng tạm bỏ cho rồi!
Rượu nồng sắc ngọc cùng tôi uống nào!
Chú thích:
*** Mạnh Giao 孟郊: Ông sống thời Trung Đường (751-814) tự là Đông Dã người vùng Vũ Khang, Hồ Châu nay thuộc tỉnh Chiết Giang, Trung Hoa. Ông sinh năm thứ 10, niên hiệu Thiên Bảo đời Đường Huyền Tông. Thiếu thời ,ông ẩn cư ở vùng núi Tung Sơn, được Hàn Dũ, một nhà thơ nổi tiếng đương thời xem như là bạn vong niên. Đến năm 795, ông 46 tuổi mới thi đỗ tiến sĩ.
Ở tuổi 50, được bổ làm chức úy ở huyện Lật Dương (Giang Tô) nhưng không thích thú lắm nên thường rong chơi kết giao với những nhân vật nổi tiếng đương thời như Trương Tịch, Giả Đảo, Hàn Dũ... v..v... Quan huyện lệnh thấy ông bỏ bê công việc nên cử người khác làm thay, chia nửa tiền lương nên ông xin từ chức. Sau này, ông được Trịnh Dư Khánh tiến cử làm quan lên đến chức Hiệp luật lang ở Lạc Dương. Năm ông 63 tuổi, Trịnh Dư Khánh lúc này là Trấn thủ vùng Hưng Nguyên nên mời ông về làm tham mưu cho quân Hưng Nguyên nhưng mới đi đến Vân Hương, ông mất đột ngột. Thơ của ông thường trầm buồn, tiết nhịp khúc mắc, vừa cổ kính, vừa tân kỳ lại hiểm hóc u uẩn nhuốm đau khổ... mà người ta gọi là lối thơ Đông Dã! Rất nhiều bài có những lời thơ ý tứ mới lạ, thực tế, tình ý lại sâu sắc công phu. Về tài năng về thơ ca của Đông Dã, người ta thấy thơ của ông thuộc loại khó làm, ngoài ý tứ sâu sắc, thơ của ông còn có những nét độc đáo gây ấn tượng cho nhiều nhà thơ đương thời. Tìm hiểu kỹ hơn, chúng ta thấy thơ của Mạnh Giao rất giàu tình cảm yêu thương với con người như cha mẹ, những người nông dân vất vả lam lũ cùng với một tình yêu thiên nhiên chan hòa... v.v... Hai tập thơ của ông để lại là mang tên Mạnh Đông Dã. Còn lối thơ khúc mắc, u sầu, cay đắng của Mạnh Giao cũng được gọi là Đông Dã thể. Nhà thơ Tô Đông Pha trong bài này vẫn làm theo phong cách của ông vẫn chú trọng nhiều về âm vận nhưng sử dụng nhiều hình ảnh độc đáo không kém gì Mạnh Giao tuy có chỗ diễu cợt, hài hước nhưng rất lạc quan!
Tô Đông Pha quả là một nhà thơ có tiếng trong nghệ thuật miêu tả và sử dụng từ ngữ sống động!
- tế tự 細字: chữ viết rất nhỏ nhưng uyển chuyển.
- ngưu mao 牛毛: lông con trâu...
- hôn hoa 昏花: bông hoa lúc trời sẩm tối, lúc hoàng hôn.
- giai xứ 佳處: chỗ có ý tứ hay lời lẽ hay ho, thú vị, chỗ xinh đẹp...
- thời nhất tao 時㇐遭: có lúc tình cờ gặp gỡ, một khi không hẹn mà gặp được...
- cô phương 孤芳: hoa hay cỏ thơm mọc lẻ loi.
- trạc 擢: nhấc lên, cất nhắc, kéo lên, bỏ đi....
- uế 穢: cỏ dại, cỏ xấu, bẩn thỉu, dơ bẩn...
- khổ ngữ 苦語: lời lẽ, ý tứ câu văn chất chứa những cay đắng, khổ não...
- Thi Tao 詩騷: tức Kinh Thi 詩經 và tập Ly Tao 離騷. của Khuất Nguyên. [Kinh Thi là một trong năm tác phẩm (NGŨ KINH 五經) gồm Kinh Thi 詩經, Kinh Lễ 禮記, Kinh Thư 書經, Kinh Dịch 易經, Kinh Xuân Thu 春秋 thuộc loại kinh điển của Nho giáo Trung Hoa do Khổng Tử san định lại (cùng với TỨ THƯ 四書 gồm Đại Học 大學, Trung Dung 中 庸, Luận Ngữ 論語, Mạnh Tử 孟子) hợp thành bộ sách TỨ THƯ NGŨ KINH làm nền tảng để nghiên cứu Nho giáo.— Còn Ly Tao 離騷. là tên một bài thơ nổi tiếng trong tập SỞ TỪ của Khuất Nguyên nước Sở thời Chiến quốc (thế kỷ thứ 3 TCN)]
- tạc tạc 鑿鑿: tạc: đào đục, va chạm, rõ ràng, rành rọt, mài giũa... Kinh Thi có câu: ”Bạch thạch tạc tạc 白石鑿鑿” – đá màu trắng rõ ràng, đá trắng rành rành ( Thơ Quốc Phong, Mục Đường phong (nhà Đường trước thời nhà Chu (TCN), còn nhà Đường về sau thuộc thời các nhà thơ nhà văn nổi tiếng như Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị, Vương Bột, Hàn Dũ... v.v..), Dương Chi Thủy 揚之水, Bài thứ 116)
- thoan kích 湍激: nước chảy xiết lại bắn lên...
- thụ cao 受篙: cầm lấy sào dài để đẩy thuyền...
- thường 償: đền bù, đền trả. VD: đắc bất thường thất: số được chẳng bù lại với số mất...
- chử bành 煮蟛: nấu, đun sôi luộc chín (chử) con còng, con cáy hay ghẹ, cua... v.v... ( bành)
- tước 嚼: nhai, gặm
- ngao 螯: cái càng con tôm, con cua hay con còng.... Con rùa biển hay con nghêu có chỗ vẫn gọi là ngao.
- tăng 僧: người tu học đạo Phật là nam giới...
- Hàn: tức Hàn Dũ 韓愈, (768-824),tự là Thoái Chi 退之, sinh tại Hà Dương, Hà Nam Trung Hoa, còn có tên là Hàn Xương Lê 韩昌黎 (do tổ phụ người gốc Xương Lê, Hà Bắc, T.H). Ông làm quan đời vua Đường Hiến Tông (806-820) bên Trung Hoa đến chức Binh bộ thị lang, Lại bộ thị lang. Hàn Dũ là một nhà văn lớn đời nhà Đường vẫn được xưng tụng là văn hào.Ông luôn chủ trương “Văn dĩ tải đạo 文 以 僌道” (dùng văn chương để chuyên chở đạo lý) theo tinh thần Nho giáo. Mạnh Giao kết bạn vong niên với Hàn Dũ. Đời Đường, Phật giáo được các vua ủng hộ nên phát triển mạnh được đề cao hơn Nho giáo. Hàn Dũ và một số người trong triều đình chống đối mạnh mẽ việc phò trợ cho Phật giáo .Ông đứng trên phương diện chính trị để đả kích đạo Phật vì sợ Phật giáo và cả Lão giáo sẽ lấn lướt Nho giáo trong việc cai trị chứ không Ơm hiểu kỹ càng về triết lý và con đường đi của đạo Phật. Nhưng khi về già, ông lại mến mộ đạo Phật và rất thân với một thiền sư tên là Đại Điên. Họ Hàn từng ngăn trở triều đình đời Đường Hiến Tông việc rước cốt Phật nên bị xuống chức Hình bộ thị lang chuyển làm Thứ sử ở Triều Châu.
- hào 豪: người có tài, kẻ hào hiệp, hơn người, kẻ mạnh vì tiền của, người đứng đầu của phe phái, kẻ phóng khoáng, con hào. Hàn hào: chỉ Hàn Dũ là một con người có tài năng của một văn hào.
- tiêu cao 消膏: tiêu tan chất mỡ...
- thả trí 且置: cứ, hãy cứ vứt bỏ hay để yên...
- ngọc sắc lao 玉色醪: lao: rượu đục, rượu nồng, rượu cặn. Rượu nồng màu sắc như ngọc.
Bài 10
ĐỘC MẠNH GIAO THI (KỲ NHỊ) 讀孟郊詩(其二)
Ngã tăng Mạnh Giao thi, 我憎孟郊詩,
Phục tác Mạnh Giao ngữ. 復作孟郊語。
Cơ trường tự minh hoán, 饑腸自鳴喚,
Không bích chuyển cơ thử. 空壁轉饑鼠。
Thi tòng phế phủ xuất, 詩從肺腑出,
Xuất triếp sầu phế phủ. 出輒愁肺腑。
Hữu như Hoàng Hà ngư, 有如黃河魚,
Xuất cao dĩ tự chử. 出膏以自煮。
Thượng ái đồng đấu ca, 尚愛銅斗歌,
Bỉ lý phả cận cổ. 鄙俚頗近古。
Đào cung xạ áp bì, 桃弓射鴨罷,
Độc tốc đoản thoa vũ. 獨速短蓑舞。
Bất ưu đạp thuyền phiên, 不憂踏船翻,
Đạp lãng bất đạp thổ. 踏浪不踏土。
Ngô cơ sương tuyết bạch, 吳姬霜雪白,
Xích cước hoán bạch trữ. 赤腳浣白紵。
Giá dữ đạp lãng nhi, 嫁與踏浪兒,
Bất thức ly biệt khổ. 不識離別苦。
Ca quân giang hồ khúc, 歌君江湖曲,
Cảm ngã trường ky lữ. 感我長羈旅。
Tô Đông Pha 蘇東坡
(làm ở Từ Châu, đời Tống Thần Tông -1078)
Dịch nghĩa:
Ta ghét thơ của Mạnh Giao – Lại làm theo câu chữ theo cách Mạnh Giao – Ruột đói tự kêu réo – Chuột đói lần vách trống (c.1-4) – Thơ từ đáy lòng mà ra – Đã đi ra, ngay tức thì, làm cho tấm lòng sầu buồn – Tựa như cá nơi sông Hoàng – mỡ chảy ra tự nướng nó cho chín (c.5 – 8) – Lại còn yêu chuộngbài ca “đấu đồng” – Quê kệch hơi hơi gần với cái xưa cũ! – Chiếc cung gỗ đào bắn con vịt thôi! – Một mình vội vàng múa cái áo tơi ngắn! (c.9-12) – Không lo dẫm đạp làm lật con thuyền – Dẫm đạp lên con sóng ,không đạp lên đất! – Nàng con gái xinh đẹp đất Ngô trắng ngần như sương, như tuyết! – chân trần giặt giũ vải thô màu trắng. (c.13-16) – Lấy chồng trai trẻ phóng túng – Không cần biết nỗi chia ly xa cách là khổ đau! – Ca lên khúc hát “Chàng sông hồ“! – Ta xúc động vì còn phải làm khách trọ lang thang lâu dài. (c.17-20)
Tạm chuyển lục bát:
ĐỌC THƠ MẠNH GIAO (BÀI 2)
Mạnh Giao, ta ghét thơ ông!!
Lại làm câu chữ kiểu dòng Mạnh Giao!
Kêu la ruột đói réo gào,
Vách tường chuột đói lần vào trống không.
Thơ làm ra ở đáy lòng,
Lòng người tức khắc sầu buồn thơ ra!
Giống như cá ở Hoàng Hà,
Cá chiên chín bởi tự ra mỡ mòng!
Chuộng ưa bài hát “đấu đồng“,
Hơi hơi quê kệch cũng gần xưa thôi!
Cung đào đem bắn vịt trời,
Vội vàng múa chiếc áo tơi một mình.
Không lo dẫm đạp lật thuyền!
Dẫm lên con sóng ,đất liền thì không!
Gái Ngô trắng đẹp tuyết sương,
Chân trần giặt giũ trắng ngần vải thô.
Lấy chồng trẻ, bước lãng du,
Khổ đau, chia cách chẳng hề biết cho!
Ca lên khúc “Gã sông hồ“,
20 Lòng ta xúc cảm chực chờ trọ lâu!
Chú thích:
- cơ 饑: đói kém, mất mùa...
- trường 腸: ruột, chỉ chung ruột non hay ruột già.
- tự 自: tự nhiên, tự mình, sẵn có, bởi, từ đó, chỗ khởi đầu...
- minh hoán 鳴喚: tiếng kêu, tiếng réo gọi...
- không bích 空壁: vách, tường nhà hay sườn núi, thành lũy v.v... trống trải, trống trơn...
- phế phủ 肺腑: ngũ tạng lục phủ tức là phổi và các cơ quan tiêu hóa. Chỉ chung tấm lòng (từ điển Thiều Chửu ), đáy lòng sâu xa hay tâm trạng con người...
- triếp 輒: ngay tức thì, quyết đoán, thường luôn...
- cao dĩ tự chử 膏以自煮: dùng mỡ hay dầu để nấu chính mình...
- đồng đấu ca 銅斗歌: chữ trong thơ của Đông Dã tức Mạnh Giao: ” Đồng đấu ẩm giang tửu, thủ phách đồng đấu ca “nghĩa là: Lấy cái đấu bằng đồng để uống rượu nước sông, tay thì vỗ cái đấu đồng mà
hát ca!”
- bỉ lý 鄙俚: quê mùa, thô kệch, thô tục, người chốn biên thùy hay chỗ xa xôi nên quê mùa...
- phả 頗: hơi hơi, nghiêng lệch, rất, lắm, đều, hết...
- áp 鴨: chỉ chung loài vịt hay liên quan đến loài này.
- bì (bãi) 罷: nghỉ, thôi không làm việc nữa, mỏi mệt, tiếng cuối câu (Vd: thôi, rồi...).
- độc tốc đoản thoa vũ 獨速短蓑舞: câu chữ này lấy ý trong thơ của Mạnh Giao: ”Cước đạp tiểu thuyền đầu, độc tốc vô quyển sa”
- đạp lãng bất đạp thổ 踏浪不踏土: chữ dùng trong thơ của Mạnh Giao: “ Đạp thổ xưng phong lưu”.
- đoản thoa 短蓑: áo tơi ngắn đan bằng cỏ tranh, lá buông, lá dừa hay cỏ rơm của lúa... v.v... ngày xưa dùng quấn quanh người để che mưa đi kèm với nón lá đội đầu...
- đạp 踏: dẫm đạp, đạp lên, dẫm lên, bước đi, dày xéo...
- phiên 翻: lật lại; phiên phiên 翻翻: bay vun vút, phấp phới...
- cơ 姬: cách gọi ngày xưa bên Trung Hoa chỉ người đàn bà đẹp, quý phái, cũng chỉ người vợ lẽ, vợ hầu...
- sương tuyết bạch 霜雪白: chỉ dáng dấp, màu da trắng trẻo thanh khiết. Có khi để chỉ sự ốm oi, mòn mỏi của một người trải qua nỗi nhớ nhung, khổ đau (Đoạn Trường Tân Thanh: “Tuyết sương ngày một hao mòn mình ve”- câu 2834 khi nói về Kim Trọng).
Nói chung chữ tuyết sương sử dụng tùy thuộc vào từng hoàn cảnh khác nhau.
- xích cước 赤腳: chân (cước) trần (xích) không mang vớ hay giày dép.
- hoán 浣: giặt giũ.
- bạch trữ 白紵: vải thô dệt từ sợi gai đã tẩy trắng.
- đạp lãng nhi 踏浪兒: kẻ còn trai trẻ thích dấn bước phiêu lãng lang thang “sông nước”(giang hồ) để rong chơi.
- ky lữ 羈旅: khách trọ ở xa quê nhà, lang thang xa xứ, ăn chực nằm chờ chốn quê người...
Bài 11
HẢI ĐƯỜNG 海棠
Đông phong niểu niểu phiếm sùng quang, 東風裊裊泛崇光,
Hương vụ không mông nguyệt chyển lang. 香霧空濛月轉廊。
Chỉ khủng dạ thâm hoa thụy khứ, 只恐夜深花睡去,
Cố thiêu cao chúc chiếu hồng trang. 故燒高燭照紅妝。
Dịch nghĩa:
Ngọn gió hướng đông quấn quýt ánh sáng lộng lẫy ngập tràn nơi nơi – Màn sương mù lờ mờ mang hương thơm lặng lẽ, ánh sáng vầng trăng dời chuyển đến hành lang – Một mình e sợ đêm về khuya, hoa sẽ bỏ đi ngủ cả! – Cho nên đưa ngọn đuốc cháy lên cao soi tỏ dáng vẻ đỏ hồng đẹp đẽ (của bông hoa).
Tạm chuyển lục bát:
HOA HẢI ĐƯỜNG
Gió đông ánh sáng đẹp tràn,
Sương mù hương lặng, hành lang trăng dời.
Sợ khuya hoa ngủ lẻ loi,
Đuốc cao soi tỏ đẹp tươi dáng hồng!
Chú thích:
*** Tô Đông Pha bị biếm trích về Hoàng Châu, được ở một căn nhà phía đông viện Định Huệ và gần một ngọn núi. Ông thấy hoa có rất nhiều loại trên núi nhưng chỉ có một cây hải đường lại không có người biết thưởng thức cái đẹp của loài hoa này nên làm bạn cùng hoa để uống rượu và xem hoa.
- hải đường 海棠: tên một loài hoa có thân cây lớn với hoa màu hồng thắm , trắng hay vàng nhạt (thuộc họ Camellia amplicilis). Riêng màu hồng thắm hay đỏ đậm thường được chuộng và trồng nhiều nơi bên Trung Hoa cũng như phía bắc nước ta.
- niểu niểu 裊裊: niểu 裊: uyển chuyển xinh đẹp; niểu niểu: dìu dặt, du dương, quấn quýt quay vòng...
- phiếm 泛: phù phiếm, không thiết thực, lênh đênh, hiện ra, tràn ngập, lan tràn...
- sùng quang 崇光: ánh sáng đẹp đẽ lộng lẫy.
- hương vụ 香霧: sương mù có hương thơm...
- không mông 空濛: không: lặng lẽ, trống vắng, trống không; mông: không rõ ràng, bao trùm, lờ mờ, mưa nhỏ... Đây chỉ sương mù lờ mờ trong bầu khí lặng lẽ tỏa hương thơm.
- chuyển lang 轉廊: dời vị trí sang phía hành lang...
- chỉ 只: chiếc, cái, đơn chiế , lẻ loi...
- khủng 恐: lo sợ, e sợ, sợ hãi, uy hiếp, dọa nạt...
- thụy khứ 睡去: đi vào giấc ngủ, đi ngủ...
- chúc chiếu 燭照: soi tỏ như đuốc...
- hồng trang 紅妝: chau chuốt, trang điểm sắc hồng thêm cho xinh đẹp . Hoa hải đường đã đỏ thắm lại có ánh sáng của ngọn đuốc làm tăng thêm dáng vẻ lộng lẫy sang trọng của loài hoa này.
(Lần đến: Thơ TÔ ĐÔNG PHA bài 12, 13 và 14)
Dương Anh Sơn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét