CHÍNH QUYỀN NGÔ
ĐÌNH DIỆM NGĂN CHẶN TỪ XA VÀ TẬN GỐC NGUY CƠ "ĐẶC KHU CHỢ LỚN TỰ TRỊ"
RA SAO?
Thập
niên 1950, sau khi quân giải phóng nhân dân Trung Hoa chiếm xong toàn bộ đại lục Trung Hoa, Chính quyền Cộng hòa Nhân
Dân Trung Hoa (Trung Quốc) lẫn Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) ngấm ngầm lẫn công
khai có chủ trương tác động, gây ảnh hưởng đến các cộng đồng người Hoa khu vực
Đông Nam Á.
Cũng
trong những năm này, Singapore là thuộc địa Anh, nơi cộng đồng người Hoa chiếm
đa số nổi lên phong trào đòi tự trị. Trong tổng tuyển cử đầu tiên năm 1955,
lãnh đạo ủng hộ độc lập của Mặt trận Lao động là David Marshall giành chiến thắng;
dẫn đầu một phái đoàn đến Luân Đôn để yêu cầu tự trị hoàn toàn, song người Anh
bác bỏ. David Marshall từ chức và Lâm Hữu Phúc trở thành người thay thế, tiếp tục
tiến hành các chính sách nhằm thuyết phục người Anh trao cho Singapore quyền tự
trị nội bộ hoàn toàn đối với toàn bộ các vấn đề, trừ quốc phòng và đối ngoại.
Thực
tế 4 năm sau, 1959, qua bầu cử tháng 5-1959, Đảng Hành Động Nhân dân giành chiến
thắng và Singapore trở thành một nhà nước tự trị nội bộ trong khối Thịnh Vượng
Chung.
Và
sau những biến động lịch sử, từ một thành viên của Liên bang Malaysia cùng với
Malaya, Sabah và Sarawak (1962), Singapore thành bang tự trị vào tháng 9-1963.
Cuối cùng, Singapore độc lập ngày 9-8-1965.
Đó
là một ví dụ cụ thể gần đây của cái gọi là chiến thuật, mô hình "tằm ăn
lá" kiểu Trung Hoa xưa nay không thay đổi: bắt đầu là đưa dân tới làm ăn ở
một vùng đất nào đó, tạo thành khối, lực lượng chặt chẽ; sau đó là... chống lại
chính quyền nơi đó, đòi tự trị rồi tách ra...
Chiến
thuật này ông cha ta "rành sáu câu"!
Việt
Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim chép:
Đời
vua Trần Anh Tông (1293-1314), đức Trần Hưng Đạo lui về trí sĩ ở Vạn Kiếp. Vua
Anh Tông thấy ngài bệnh nặng sắp mất liền ngự giá đến thăm. Nhà vua đã cẩn thận
xin ý kiến của Hưng Đạo Vương về cách thế đối phó với giặc phương bắc, mới hỏi
rằng: "Thượng phụ một mai khuất núi, phỏng có quân bắc lại sang thì làm thế
nào?"
Hưng
Đạo Vương tâu rằng: “(...) Khi nào quân giặc kéo đến ầm ầm, như gió, như lửa,
thế ấy lại dễ chống. Nếu nó dùng cách dần dà, như tằm ăn lá, thong thả mà không
ham của dân, không cần lấy mau việc, thế ấy mới khó trị...".
Cũng
trong thập niên 1950, cảnh giác nguy cơ "tằm ăn lá" và lấy ngay tấm
gương tự trị Singapore sát cạnh, Chính quyền Ngô Đình Diệm đã tiến hành một loạt
biện pháp cụ thể phòng chống nguy cơ tỉnh Chợ Lớn, thành phố Chợ Lớn - nơi có
đa số cư dân là người Hoa - đòi tự trị.
Tỉnh
Chợ Lớn (khác thành phố Chợ Lớn) vốn được chính quyền Pháp thành lập ngày
20-12-1899 với nhiều quận huyện. Dân số tỉnh Chợ Lớn ở thập niên 1950 khoảng
1.000.000 dân (bao gồm cả người Việt, người Hoa...), xấp xỉ Singapore lúc ấy.
Còn
thành phố Chợ Lớn (khu vực quận 5, 6 và một phần quận 8, 10 hiện nay) vốn được
thành lập sớm hơn, cùng thời điểm chính thức thành lập thành phố Sài Gòn 1865.
Đến
1956, dưới thời Chính quyền VNCH Ngô Đình Diệm, hầu hết người Hoa ở tỉnh Chợ Lớn,
thành phố Chợ Lớn vẫn mang quốc tịch Trung Hoa (Trung Hoa Dân quốc - Đài Loan).
Và cộng đồng này vốn có quan hệ rất chặt chẽ về gia đình, buôn bán với cộng đồng
người Hoa ở Singapore - từ hàng trăm năm...
Tấm
gương Singapore cộng với tác động ngấm ngầm của của Chính quyền Trung Quốc lúc ấy
cộng với các nhóm Tam Hoàng (vốn là các nhóm Thiên Địa hội từ Trung Quốc tràn
sang Việt Nam và rất manh động trong giới người Hoa ở miền Nam suốt thời Pháp
thuộc) hoạt động ngấm ngầm, Chính quyền Tổng thống VNCH Ngô Đình Diệm đã ra
tay: hàng loạt biện pháp phòng chống nguy cơ "diễn biến hòa bình" được
thực hiện ngay những ngày đầu tiên của nền Đệ nhất Cộng hòa.
Nổi
bật là hai biện pháp chính:
1.
Công bố hàng loạt ngành nghề kinh doanh chỉ dành cho người Việt Nam; người nước
ngoài không được hành nghề.
Cụ
thể Thủ Tướng VNCH Ngô Đình Diệm (Thủ tướng Diệm đắc cử tổng thống VNCH ngày
24-10-1956) ra Đạo dụ (một hình thức quy phạm pháp luật mang tính bắt buộc thời
đó) số 53 ngày 6-9-1956 quy định người nước ngoài không được hoạt động 11 ngành
nghề, nhắm chủ yếu vào Hoa kiều:
1)
Buôn bán cá thịt
2) Buôn bán tạp hóa
3) Buôn bán than, củi
4) Buôn bán xăng, dầu lửa và dầu nhớt
5) Cầm đồ bình dân
6) Buôn bán vải, tơ lụa, chỉ sợi
7) Buôn bán sắt, đồng, thau vụn
8) Nhà máy xay lúa
9) Buôn bán ngũ cốc
10) Chuyên chở hàng hóa, hành khách bằng xe hơi, hay tàu thuyền
11) Trung gian ăn huê hồng.
Người
Hoa vốn mê buôn bán, làm ăn. Thế là chỉ trong một vài năm, dù giới Hoa kiều ở
Chợ lớn - Sài Gòn phản ứng khá dữ dội cả không chỉ chính trị mà cả với hoạt động
kinh tế, 99,8% trên tổng số hơn 1 triệu người Hoa ở tỉnh, thành phố Chợ Lớn
cũng như toàn miền Nam xin nhập quốc tịch Việt Nam; trở thành người Việt gốc
Hoa như chúng ta thấy ngày nay, chứ không còn là Hoa kiều như trước đó. Một số
ngoại kiều, không chỉ Hoa kiều không vô quốc tịch Việt Nam thì thoải mái
"đi chỗ khác chơi" (tức trục xuất) hay tự về nước tùy ý.
Đến
năm 1961, Bộ Nội vụ VNCH đã báo cáo lên Tổng thống Ngô Đình Diệm: Trên
1.000.000 người Hoa trên địa phận VNCH (miền Nam) chỉ còn 2.000 người già yếu,
bệnh tật không nhập quốc tịch (0,2%) nên cũng không cần trục xuất.
Quốc
tịch Việt Nam rồi thì còn đòi tự trị gì được! Không lẽ người Việt đòi tự trị với
người Việt - bất hợp pháp với công pháp quốc tế.
*
Trước đó, chỉ sau khi khai sinh Đệ nhất Cộng hòa (26-10-1955) gần một tháng rưỡi,
để giải quyết dứt khoát vấn đề Hoa kiều ở miền Nam Việt Nam, ngày 7-12-1955, Thủ
tướng VNCH Ngô Đình Diệm đã ký ban hành Dụ số 10 quy định về Bộ Luật Quốc tịch
Việt Nam. Điều 12 ghi rõ: “Con chính thức mà mẹ là người Việt Nam, và cha là
người Trung Hoa, nếu sinh đẻ ở Việt Nam thì là người Việt Nam”.
Lúc
đó, giới Hoa kiều ở miền Nam vẫn hy vọng Thống chế Trung Hoa Dân quốc (Đài
Loan) Tưởng Giới Thạch sẽ can thiệp nên có ý coi thường, không chấp hành đạo dụ
này. Thủ tướng VNCH Ngô Đình Diệm ra tiếp Dụ số 48 (ngày 21-8-1956), Sửa đổi Bộ
Luật Quốc tịch Việt Nam, Điều 16 quy định:
"Hoa
kiều thổ sanh (sinh trưởng tại Việt Nam) sẽ là người Việt Nam, bắt buộc phải nhập
và khai nhận quốc tịch Việt Nam, hoặc nếu không chịu nhập tịch thì có thể xin hồi
hương (về Đài Loan) trước ngày 31-8-1957. Thời hạn ấn định cho những Hoa kiều
sinh tại Việt Nam phải làm khai sinh để được cấp thẻ căn cước sẽ kết thúc ngày
08-4-1957, việc kiểm tra sẽ hoàn tất vào ngày 22-6-1957".
Ai
không muốn nhập tịch thì ra đi, mỗi người sẽ được chính quyền Sài Gòn cấp 400 đồng
để "hồi hương", đúng theo luật định.
8
ngày sau, 29-8-1956, Thủ tướng Ngô Đình Diệm lại ban hành Dụ số 52 quy định Hoa
kiều sinh sống ở VNCH phải mang quốc tịch Việt để tự do giao dịch, đi lại và
buôn bán. Người Hoa phải Việt hóa tên họ (như Trịnh, Quách, Mạch, Lâm, Giang,
Diệp, Lưu, Vương, Hà, Hứa, Mã, Lý, Trần, Trương, v.v…) chứ không được xưng các
tên ngoại quốc hay tên gọi riêng (như Chú, A, Chế…) kể cả bí danh, trong những
văn kiện chính thức. Tên hiệu các cơ sở thương mại, văn hóa, phải viết bằng Việt
ngữ.
Và
8 ngày sau nữa (6-9-1956), Thủ tướng Ngô Đình Diệm tung đòn "nock-out"
bằng Dụ số 53 như đã nói ở trên.
Loạt
sự kiện này đã làm rung chuyển giới Hoa kiều Sài Gòn - Chợ Lớn lẫn miền Nam lúc
ấy. Đến mức con nít Sài Gòn hát um xùm một bài hát ngắn gọn mà đến nay chắc chắn
nhiều người Sài Gòn còn nhớ: "Các (mấy) chú Ba Tàu, thằng nào cũng như thằng
nấy - Thằng nào không giấy (quốc tịch Việt), đuổi ngay nó đi về Tàu..."
2.
Một tháng rưỡi sau, biện pháp địa giới hành chính ngăn chặn tận gốc cụ thể cũng
được ban hành. Ngày 22-10-1956, trước khi đắc cử tổng thống VNCH hai ngày
(24-10-1956), Thủ tướng Ngô Đình Diệm ký Sắc lệnh 143/VN "Thay đổi địa giới
và tên Đô Thành Sài Gòn - Chợ Lớn cùng các tỉnh và tỉnh lỵ tại Việt Nam".
Theo
đó, địa phận VNCH gồm Đô thành Sài Gòn và 22 tỉnh. Lúc này, tỉnh Tân An hợp nhất
phần lớn đất đai tỉnh Chợ Lớn để thành lập tỉnh mới Long An. Một số khu vực còn
lại của tỉnh Chợ Lớn nhập vô tỉnh Gia Định.
Cũng
theo sắc lệnh này, Đô Thành Sài Gòn - Chợ Lớn đổi tên thành Đô Thành Sài Gòn.
Như vậy tên gọi "Chợ Lớn" không còn được dùng chính thức trong các
tên gọi hành chính cấp tỉnh thành nữa. Kể từ đây, địa danh "Chợ Lớn"
chỉ còn được dùng để chỉ khu vực quận 5, quận 6, quận 11 và một phần quận 8, quận
10 của Đô thành Sài Gòn.
Tỉnh
Chợ Lớn có đa số cư dân là người Hoa tồn tại 57 năm (1899 - 1956) đến đó là hết!
Thành phố Chợ Lớn 91 năm (1865 - 1956) cũng không còn! Chỉ là địa danh lịch sử
- văn hóa.
Đô
thành Sài Gòn - Chợ Lớn vốn là đơn vị hành chính do Tổng thống Pháp ký thành lập
năm 1931 (Région Saigon - Cholon hoặc Région de Saigon - Cholon). Ngày
30-6-1951, Thủ tướng Quốc gia Việt Nam Trần Văn Hữu (3 tháng sau, tháng 9-1951,
Thủ tướng Trần Văn Hữu đã tuyên bố Hoàng Sa, Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam
trước thế giới tại Hòa hội Cựu Kim Sơn) ký sắc lệnh số 311-cab/SG đổi tên Khu
Sài Gòn - Chợ Lớn thành Đô Thành Sài Gòn - Chợ Lớn (Préfecture Saigon - Cholon
hoặc Préfecture de Saigon - Cholon hoặc Ville-capitale de Saigon - Cholon).
Với
Sắc lệnh 143/VN, Đô Thành Sài Gòn - Chợ Lớn chỉ còn Đô Thành Sài Gòn. Chợ Lớn
trở thành quận 5, 6... của Sài Gòn.
Chấm
hết vĩnh viễn hai địa giới hành chính, khu dân cư nhiều người Hoa có nguy cơ tự
trị ở miền Nam! Chấm hết âm mưu "tằm ăn lá" muôn đời nay của các nhà
cầm quyền, thế lực Trung Hoa với miền Nam.
NÓI
THÊM: Cũng vào giữa thập niên 1950, Chính quyền Sài Gòn đã đặt tên lại hàng loạt
con đường vốn mang tên Pháp ở Sài Gòn. Chú ý: Các con đường từ Sài Gòn (khu vực
người Việt) vô Chợ Lớn (khu vực đa số người Hoa) đều mang tên các danh tướng,
danh nhân, địa danh đánh thắng các thế lực xâm lược Trung Hoa: Trần Hưng Đạo (bắt
đầu từ trung tâm Sài Gòn, chợ Bến Thành tới đường Cộng Hòa - nay là đường Nguyễn
Văn Cừ, ranh giới Sài Gòn - Chợ Lớn), Nguyễn Trãi, Trần Quốc Toản (nay là 3-2),
Bến Bạch Đằng - Bến Chương Dương - Bến Hàm Tử...
Fb
Cù Mai Công
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét