Bạt kiếm chước địa ca: “Mạc ai”. 拔劍斫地歌莫哀.
Ức tái lỗi lạc chi kỳ tài. 抑塞磊落之奇才.
Dự Chương phiên phong bạch nhật động, 豫章翻風白日動,
Kình ngư bạt lãng thương minh khai. 鯨魚跋浪滄溟開.
Thả thoát bội kiếm hưu bồi hồi, 脫佩劍休裴回,
Tây đắc chư hầu trạo Cẩm Thuỷ. 西得諸侯錦水.
Dục hướng hà môn táp châu lý, 欲向何門趿珠履,
Trọng Tuyên lâu đầu xuân sắc thâm. 仲宣樓頭春色深,
Thanh nhãn cao ca vọng ngô tử, 青眼高歌望子,
Nhãn trung chi nhân ngô lão hĩ. 眼中之人吾老矣,
Đỗ Phủ 杜 甫
Dịch nghĩa:
Chàng Vương uống rượu say sưa, rút gươm ra chém đất rồi ca lên: "Chớ buồn sầu!". Ta có thể làm được gì cho ngươi? Kẻ tài giỏi hơn người bị đè nén, ngăn trở (c.1-4). Cây cao lớn ở Dự Chương ban ngày gió vượt qua lay động; con cá kình đạp sóng mở ra biển cả mênh mông! Hãy thử cởi bỏ kiếm đang đeo để lui về nghỉ ngơi. Phía tây được các nước chư hầu giúp để chèo thuyền ở sông Cẩm (c.5-8). Muốn hướng đến cửa nào đây để kéo lê, dời chân ngọc? Trọng Tuyên ở phía đầu gác lầu, sắc màu mùa xuân còn dài! Mắt xanh cất cao tiếng hát trông ngóng chúng ta. Trong con mắt (xanh) của người ấy, ta đã già rồi! (c.9-12)
Tạm chuyển lục bát:
BÀI CA NGẮN TẶNG CHÀNG VƯƠNG LÀM QUAN NGAY THẲNG.
Say sưa uống rượu chàng Vương,
Rút gươm chém đất: "Chớ buồn!", hát thôi.
Ta làm gì được giúp ngươi,
Kẻ tài ngăn trở ,ép người giỏi giang.
Dự Chương ngày gió vần sang,
Cá kình mở biển đạp tràn sóng xô!
Bỏ gươm ngơi nghỉ: chần chờ!
Chèo thuyền sông Cẩm, được nhờ nước tây.
Cửa nào muốn đến, lê giầy?!
Trọng Tuyên đầu gác, còn dài vẻ xuân.
Mắt xanh hát lớn, ngóng trông,
Ta đây già lão ở trong mắt người!
Chú thích:
- tửu hàm 酒 酣: bó buộc, uống rượu say sưa, vui chén thỏa thích, uống rượu say bí tỉ. v.v...
- bạt kiếm 拔 劍: rút gươm ra ...
- chước 斫: chặt, đốn phạt, đẵn cây...
- năng 能: có thể, khả năng, có tài năng, khả dĩ, nên, làm được...
- nhĩ 爾: mày, anh bạn, vậy, ấy, cái đó, như thế, như vậy, tiếng dứt câu...
- ức tái 抑 塞: đè nén, chén ép và ngăn trở....
- Dự Chương 豫 章: thành Dự Chương phía nam có một cây chương, thuộc giống cây mã não to lớn. Dân vùng này gọi là cây Dự Chương.
- phiên phong 翻 風: gió lật lại, gió vượt qua, gió trở mình, bay liệng...
- bạch nhật 白日: ban ngày, mặt trời...
- bạt lãng 跋 浪: đạp, giẫm lên, trèo lên con sóng....
- thương minh 滄 溟: biển khơi, biễn mênh mông, mua nhỏ trên biển...
- thả thoát 且 脫: hãy thử cởi bỏ, hãy tháo ra, hãy thoát khỏi sự gò bó...
- hưu 休: nghỉ ngơi, lui về, dừng lại, thôi, tốt lành...
- bồi hồi 裴 回: chần chừ, do dự, dùng dằng, lưỡng lự, đi đi lại lại....
- Cẩm Thủy 錦 水: sông chảy qua Thành Đô, một thành phía tây Trung Hoa. Đỗ Phủ làm bài thơ này khi phải nương nhờ Tiết độ sứ Nghiêm Vũ ở Tây Thục.
- Trọng Tuyên 仲 宣: Trọng Tuyên tên tự của Vương Xán ,nhà thơ và nhà văn sống cuối thời Đông Hán. Gặp khi loạn lạc, ông phải lánh nạn về Kinh Châu sống nhờ Lưu Biểu. Ông thường ngồi trên gác lầu để làm phú...
- thanh nhãn 青 眼: do tích Nguyễn Tịch trong nhóm Trúc Lâm Thất Hiền 竹林七賢 có con mắt màu trắng khi nhìn kẻ thô lậu và sẽ đổi thành mắt màu xanh khi gặp người thanh cao. Mỗi khi gặp Kê Khang 嵇康 ông rất vui vẻ hát hò. Kê Khang (233-262) tên là Thúc Dạ 叔夜 đời Tấn cũng trong nhóm được tôn là Trúc Lâm Thất Hiền. Khi lánh nạn do giặc giã, đến Kê Sơn nên đặt thêm hiệu là Kê Khang. Ông nổi danh với khúc đàn Quảng Lăng Tán 廣陵散. Về sau ông bị Tư Mã Chiêu 司馬昭 làm hại. Khi lâm hình ,ông ung dung gảy khúc hát này. Chỗ ông đàn được gọi là Kê Khang cầm đài 嵇康琴臺 (Nguyễn Du đã nhắc đến tích "cầm đài" này trong Đoạn Trường Tân Thanh: "Rằng nghe nổi tiếng cầm đài / Nước non luống những lắng tai Chung Kỳ" -c.463)
Dương Anh Sơn
(Lần đến: Thơ Đỗ Phủ: bài 40,41)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét