Thứ Hai, 18 tháng 4, 2022

Thơ Đỗ Phủ - Bài 38, 39

 


THƠ ĐỖ PHỦ - BÀI 35, 39
Thầy Dương Anh Sơn 

BÀI 38

THÁN ĐÌNH TIỀN CAM CÚC HOA                                  

Đình tiền cam cúc di thì vãn,                                                  
Thanh nhị trùng dương bất kham trích.                                  重陽
Minh nhật tiêu điều tận tuý tỉnh,                                             
Tàn hoa lạn mạn khai hà ích?                                                  
Ly biên dã ngoại đa chúng phương,                                       
Thái hiệt tế toả thăng trung đường.                                         
Niệm tư không trường đại chi diệp,                                        
Kết căn thất sở triền phong sương                                          
Đỗ Phủ                                                                                    杜 甫  

Dịch nghĩa:

Cây cam cúc trước sân được dời đi (trồng lại) muộn màng! Búp hoa còn xanh nên vào tiết Trùng dương không thể hái được. Sáng hôm sau thấy buồn bã khi đã say cùng cực rồi tỉnh lại. Hoa đã tàn rất nhiều nên hoa nở có ích gì?  (c.1-4)   

Cách hàng rào, ngoài cánh đồng có nhiều (loài hoa) thơm ngát, hái lấy (bày) lẻ tẻ cho đẹp ở giữa nhà. Nghĩ đến (hoa cúc) này với lá dài lớn giữa khoảng không gian,  rễ bó thắt lại ở chỗ không tốt, phải chịu ràng buộc với gió sương. (c.5-8)

Tạm chuyển lục bát: 

LỜÌ THAN HOA CAM CÚC TRƯỚC SÂN 

Trước sân cam cúc muộn dời,
Trùng dương chẳng thể hái rồi nụ xanh!
Hôm sau tỉnh rượu buồn tênh,
Ích gì loạn nở, hoa đành tàn phai.
Bên rào ,hoa dại hương đầy,
Vụng thô hái lấy bày lên giữa nhà.
Nhành to, lá lớn nghĩ là,
Rễ không chỗ tốt chịu đà gió sương!

Chú thích:
*** Bài thơ này Đỗ Phủ làm ra khi ở vùng kinh đô Trường An (754). Mỗi năm vào dịp tiết Trùng dương hay còn gọi là Tết Trùng cửu (mồng 9 tháng 9 âm lịch), người Trung Hoa thường lên núi hái thuốc  và uống rượu, thưởng hoa nhất là hoa cam cúc. Tác giả đã mượn câu chuyện thưởng thức hoa khi hoa cam cúc nở muộn, người ta đi hái lấy các loại hoa ngoài bờ rào hay đồng cỏ để chưng lên giữa nhà.... để mặc hoa cam cúc vì muộn nở nơi chỗ không tốt lại bị gió sương vây bủa ví như kẻ sĩ không gặp thời để cho bọn tầm thường tác oai tác quái....
- thán  (): lời than thở, giọng ngân dài, sự khen ngợi....
- cam cúc : tên một loại cúc được nhiều người Trung Hoa ưa chuộng để thưởng thức trong những dịp lễ hội...
- bất kham : không chịu được, không kham nổi, nhiều trường hợp dùng như chữ khả (可). Bất khả: không thể ,chẳng thể...
- thanh nhị  : nụ hoa, búp hoa, nhụy hoa còn xanh
- tiêu điều : vắng vẻ, xơ xác, thưa thớt, gầy gò, ốm yếu, buồn bã, tản mát...
- lạn mạn : tạp loạn, um tùm, lấn lướt, nhiều lắm, vượt quá, tán loạn, say sưa ,tha hồ....
- phương : cỏ thơm, hương thơm của hoa, tiếng thơm....
- thái hiệt tế tỏa    : hái lấy, cắt lấy những cái lẻ tẻ, thô lậu vụn vặt (không đẹp)
- thăng : bay lên, lên cao, tiến lên, tốt, đẹp hơn, thăng chức, mặt trời mọc...
- niệm tư : nghĩ như thế, nghĩ đến, nghĩ thế này...
- không : khoảng không gian, trống rỗng, cao rộng, lớn, vô ích...
- kết căn   : rễ thắt bó lại...
- thất sở  : chỗ không đạt, mất, bỏ qua, sót, lỡ, nơi sai trái, chỗ không tốt, chỗ đánh mất...
- triền  : ràng buộc, cuốn lấy, quấn quanh, quấy rầy, chèn ép, đè nén...


BÀI 39

ĐOẢN CA HÀNH TẶNG VƯƠNG LANG TƯ TRỰC                                
 

Vương lang tửu hàm,                                                                              ,

Bạt kiếm chước địa ca: “Mạc ai”.                                                           .

Ngã năng bạt nhĩ,                                                                                    ,

Ức tái lỗi lạc chi kỳ tài.                                                                           .

Dự Chương phiên phong bạch nhật động,                                              ,

Kình ngư bạt lãng thương minh khai.                                                    浪滄.

Thả thoát bội kiếm hưu bồi hồi,                                                              ,

Tây đắc chư hầu trạo Cẩm Thuỷ.                                                           西.

Dục hướng hà môn táp châu lý,                                                              趿,

Trọng Tuyên lâu đầu xuân sắc thâm.                                                      仲宣樓頭春色深,                              

Thanh nhãn cao ca vọng ngô tử,                                                            ,

Nhãn trung chi nhân ngô lão hĩ.                                                              ,

Đỗ Phủ                                                                                                    杜 甫  


Dịch nghĩa:

Chàng Vương uống rượu say sưa, rút gươm ra chém đất rồi ca lên: "Chớ buồn sầu!". Ta có thể làm được gì cho ngươi? Kẻ tài giỏi hơn người bị đè nén, ngăn trở (c.1-4). Cây cao lớn ở Dự Chương ban ngày gió vượt qua lay động; con cá kình đạp sóng mở ra biển cả mênh mông! Hãy thử cởi bỏ kiếm đang đeo để lui về nghỉ ngơi. Phía tây được các nước chư hầu giúp để chèo thuyền ở sông Cẩm (c.5-8). Muốn hướng đến cửa nào đây để kéo lê, dời chân ngọc? Trọng Tuyên ở phía đầu gác lầu, sắc màu mùa xuân còn dài! Mắt xanh cất cao tiếng hát trông ngóng chúng ta. Trong con mắt (xanh) của người ấy, ta đã già rồi! (c.9-12)


Tạm chuyển lục bát:


BÀI CA NGẮN TẶNG CHÀNG VƯƠNG LÀM QUAN NGAY THẲNG.

Say sưa uống rượu chàng Vương,

Rút gươm chém đất: "Chớ buồn!", hát thôi.

Ta làm gì được giúp ngươi,

Kẻ tài ngăn trở ,ép người giỏi giang.

Dự Chương ngày gió vần sang,

Cá kình mở biển đạp tràn sóng xô!

Bỏ gươm ngơi nghỉ: chần chờ!

Chèo thuyền sông Cẩm, được nhờ nước tây.

Cửa nào muốn đến, lê giầy?!

Trọng Tuyên đầu gác, còn dài vẻ xuân.

Mắt xanh hát lớn, ngóng trông,

Ta đây già lão ở trong mắt người! 


Chú thích:

- tửu hàm   bó buộc, uống rượu say sưa, vui chén thỏa thích, uống rượu say bí tỉ. v.v...

- bạt kiếm  : rút gươm ra ...

- chước : chặt, đốn phạt, đẵn cây...

- năng : có thể, khả năng, có tài năng, khả dĩ, nên, làm được...

- nhĩ : mày, anh bạn, vậy, ấy, cái đó, như thế, như vậy, tiếng dứt câu...

- ức tái   : đè nén, chén ép và ngăn trở....

- Dự Chương   : thành Dự Chương phía nam có một cây chương, thuộc giống cây mã não to lớn. Dân vùng này gọi là cây Dự Chương.

- phiên phong  : gió lật lại, gió vượt qua, gió trở mình, bay liệng...

- bạch nhật : ban ngày, mặt trời...

- bạt lãng  : đạp, giẫm lên, trèo lên con sóng....

- thương minh  : biển khơi, biễn mênh mông, mua nhỏ trên biển...

- thả thoát  : hãy thử cởi bỏ, hãy tháo ra, hãy thoát khỏi sự gò bó...

- hưu : nghỉ ngơi, lui về, dừng lại, thôi, tốt lành...

- bồi hồi  : chần chừ, do dự, dùng dằng, lưỡng lự, đi đi lại lại....

- Cẩm Thủy  : sông chảy qua Thành Đô, một thành phía tây Trung Hoa. Đỗ Phủ làm bài thơ này khi phải nương nhờ Tiết độ sứ Nghiêm Vũ ở Tây Thục.

- Trọng Tuyên 仲 宣: Trọng Tuyên tên tự của Vương Xán ,nhà thơ và nhà văn sống cuối thời Đông Hán. Gặp khi loạn lạc, ông phải lánh nạn về Kinh Châu sống nhờ Lưu Biểu. Ông thường ngồi trên gác lầu để làm phú...

- thanh nhãn  : do tích Nguyễn Tịch trong nhóm Trúc Lâm Thất Hiền 竹林七賢 có con mắt màu trắng khi nhìn kẻ thô lậu và sẽ đổi thành mắt màu xanh khi gặp người thanh cao. Mỗi khi gặp Kê Khang  嵇康  ông rất vui vẻ hát hò. Kê Khang (233-262) tên là Thúc Dạ  叔夜  đời Tấn cũng trong nhóm được tôn là Trúc Lâm Thất Hiền. Khi lánh nạn do giặc giã, đến Kê Sơn nên đặt thêm hiệu là Kê Khang. Ông nổi danh với khúc đàn Quảng Lăng Tán 廣陵散. Về sau ông bị Tư Mã Chiêu 司馬昭 làm hại. Khi lâm hình ,ông ung dung gảy khúc hát này. Chỗ ông đàn được gọi là Kê Khang cầm đài 嵇康琴臺 (Nguyễn Du đã nhắc đến tích "cầm đài" này trong Đoạn Trường Tân Thanh: "Rằng nghe nổi tiếng cầm đài / Nước non luống những lắng tai Chung Kỳ" -c.463)    

Dương Anh Sơn 

(Lần đến: Thơ Đỗ Phủ: bài 40,41) 


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét