Nhóm Tin lành Buôn Dhiă cầu nguyện cho các nạn nhân bị bách hại vì lý do tôn giáo 22/8/2022.
Thư tố giác nói gì?
Thư tố giác được ký bởi bà Nazila Ghanea (Báo cáo viên Đặc biệt về tự do tôn giáo hoặc tín ngưỡng), ông Mumba Malila (Phó trưởng nhóm công tác về bắt giữ tùy tiện), ông Clement Nyaletsossi Voule (Báo cáo viên Đặc biệt về quyền tự do hội họp ôn hòa và lập hội), và ông Fernand de Varennes (Báo cáo viên Đặc biệt về các vấn đề thiểu số).
Thư nhắc tới cáo buộc rằng ông Čung Niê, ông Y Thinh Niê, và ông Y Don Niê, ba người Thượng theo đạo Tin lành, bị đàn áp, bắt giữ tùy tiện, và tra hỏi không có luật sư, khi họ có các hoạt động cho Ngày Quốc tế tưởng niệm các nạn nhân của hành vi bạo lực liên quan đến tôn giáo hoặc tín ngưỡng (22/8 hàng năm).
Thư tố giác cũng nói những hình phạt với ông Čung Niê, ông Y Thinh Niê, và ông Y Don Niê “không phải là trường hợp cá biệt” và trước đây chính quyền Việt Nam đã “bắt giữ, thẩm vấn, và đe dọa thành viên các nhóm tôn giáo độc lập khác nhau” khi tưởng niệm ngày này. Họ nhắc tới một số trường hợp khác như ông Y Phô Êban, ông Y Siu Loar, ông Y Khen Buondap của các hệ phái Tin lành; và các tín đồ Cao Đài độc lập.
Việt Nam phản hồi như thế nào?
Trong thư phản hồi ngày 27/7, Việt Nam phủ nhận mọi cáo buộc và nói ở Việt Nam “không ai bị bắt giữ tùy tiện hay trừng phạt vì thực hiện các quyền tự do hợp pháp, bao gồm quyền tự do tín ngưỡng và tôn giáo, tự do ngôn luận và quan điểm, tự do hội họp và lập hội.”
Về ba ông Y Cung Niê, Y Thinh Niê, Y Don Niê, nhà nước Việt Nam cáo buộc họ có “những hoạt động phức tạp liên quan đến tổ chức FULRO [nguyên văn viết là FURLO]”.
Như đã viết nhiều lần trên Mạch Sống (trong bài viết về Y Phic H’dok, Y Quynh Buondap, Y Arôn Êban, Y Dú Ksơr…), các tín đồ Tin lành ở Tây Nguyên, khi bị chính quyền địa phương bắt giữ, đều luôn bị tra hỏi về FULRO và bị cáo buộc là hoạt động cho FULRO, dù họ đều khẳng định không có. Thư phản hồi của nhà nước Việt Nam nói công an địa phương mời ba ông Y Cung Niê, Y Thinh Niê, và Y Don Niê lên làm việc và đó “là hoạt động bình thường của lực lượng công an Việt Nam” – “việc mời công dân lên nói chuyện không phải là bắt bớ nên theo luật không bắt buộc phải có luật sư”. Phủ nhận đàn áp các nhóm Cao Đài và Tin lành, thư khẳng định nhà nước Việt Nam “bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và tôn giáo của nhân dân, quyền theo hoặc không theo tôn giáo, bảo đảm bình đẳng và không phân biệt đối xử vì lý do tôn giáo hay tín ngưỡng, và có luật pháp bảo vệ hoạt động của các tổ chức tôn giáo.”
Việt Nam có người bản địa không?
Thư phản hồi nói “ở Việt Nam không có người bản địa, cũng không tồn tại cái gọi là ‘người Thượng bản địa’ (indigenous Montagnards).” Việt Nam nói Việt Nam có 54 sắc tộc cùng sinh sống, và từ “Montagnard” không được công nhận.
Trong phỏng vấn đăng trên RFA Tiếng Việt ngày 5/7/2023, TS. Nguyễn Văn Huy, nguyên Giáo sư Phụ trách bộ môn Dân tộc học khu vực Đông Nam Á, Phân khoa Nhân chủng, Dân tộc và Khoa học Tín ngưỡng, Đại học Denis Diderot, Paris 7 (1995-1999) cho biết:
“Đất nước mình tuy có lịch sử lâu dài, như người ta hay nói là 4000 năm, nhưng thực ra rất là mới. “Hơn nữa, lịch sử lâu dài đó của Việt Nam thực sự chỉ tập trung ở phía Bắc, xung quanh sông Hồng. Còn dải đất miền Trung thì mới chỉ được sát nhập vào lãnh thổ Việt Nam sau này. Thanh Hóa, Nghệ An thì sớm hơn, còn từ Huế trở vào thì mới nhập vào lãnh thổ Việt Nam mấy trăm năm nay. Miền Nam thì gia nhập trễ nhất, có những khu vực mới nhập vào từ thế kỉ 19.
“Còn Tây Nguyên thì thực tế chỉ được "hội nhập" vào lãnh thổ Việt Nam từ đầu thế kỉ 20. Trước đó thì quyền lực các vương triều phong kiến đối với Tây Nguyên rất lỏng lẻo, chỉ có tính chất tượng trưng, phủ dụ.
“Thành ra, nếu mình nói cộng đồng người Thượng ở Tây Nguyên không phải là người bản địa, hay người Khmer ở Miền Nam, người Chăm ở miền Trung không phải là người bản địa chỉ là cách nói hồ đồ, khiên cưỡng, không đúng với sự thật.”
TS. Nguyễn Văn Huy cũng nói:
“Ít nhất đã từng có hai cơ chế tôn trọng quyền của người bản địa như vậy. […] Sau khi Chính phủ Quốc gia Việt Nam ra đời, ông Bảo Đại đặt ra quy chế "Hoàng triều Cương thổ", tôn trọng tính tự trị của người bản địa ở Tây Nguyên và các vùng miền núi phía bắc. […]
“Năm 1956, ở miền Bắc, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa công bố Sắc lệnh số 268/SL ngày 7/1/1956 thành lập Khu Tự trị Việt Bắc. Nội dung của Sắc lệnh này đã chứng tỏ rất rõ là Việt Nam có người bản địa, dù văn bản này không nhắc tới khái niệm đó.”
Việt Nam đối xử với người bản địa như thế nào? |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét