THƠ ĐỖ PHỦ - BÀI 76, 77 VÀ 78
Thầy Dương Anh Sơn
THƠ ĐỖ PHỦ
Bài 76
KHUYẾT ĐỀ 闕題
Tam nguyệt tuyết liên dạ, 三月雪連夜,
Vị ưng thương vật hoa. 未應傷物華。
Chỉ duyến xuân dục tận, 只緣春欲盡,
Lưu trước bạn lê hoa. 留著伴梨花。
Dịch nghĩa:
Tháng ba, tuyết (rơi) suốt cả đêm, - Chưa hòa theo nỗi cảm thương
cảnh sắc bốn mùa. – Đành ở bên rìa mùa xuân sắp hết rồi, - Đợi dịp, nương vào hoa lê làm bạn bè.
Tạm chuyển lục bát:
BÀI THƠ CÒN THIẾU ĐỀ.
Tháng ba tuyết suốt đêm thâu,
Chưa hòa thương cảm sắc mầu cả năm.
Bên rìa sắp hết mùa xuân,
Hoa lê đợi dịp làm thân bạn bè!
Chú thích:
** Bài thơ này được chép trong “Thảo đường dật thi thập di 草堂逸詩拾遺 , không rõ năm sáng tác.
- tuyết liên dạ 雪連夜: tuyết rơi suốt đêm ,rơi liên tuc nối nhau...
- ưng 應: đáp ứng, phụ họa, hòa theo, nên thế, thích...
- thương 傷: thương cảm, vết thương, cản trở, tổn hại, đau đớn...
- vật hoa 物華: cảnh vật quanh năm, cảnh sắc bốn mùa...
- duyến 緣: rìa, bên cạnh, noi theo, đường viền, leo, quấn quanh...
- lưu 留: lưu lại, giữ gìn, đợi dịp, lâu, đình lại, chú ý...
- trước 著: dựa vào, nương theo, biên soạn, viết sách, bày ra, sáng tỏ, rõ rệt...
- câu 4: khi mùa xuân hết, bông tuyết bay ví như những cánh hoa của cây lê sẽ là dịp để làm bạn bè khi ngắm cảnh vật sắc màu của thiên nhiên...
Bài 77
PHIÊN KIẾM 蕃劍
Trí thử tự tích viễn, 致此自僻遠,
Hựu phi châu ngọc trang. 又非珠玉裝。
Như hà hữu kỳ quái, 如何有奇怪,
Mỗi dạ thổ quang mang. 每夜吐光芒。
Hổ khí tất đằng trác, 虎氣必騰踔,
Long thân ninh cửu tàng? 龍身寧久藏。
Phong trần khổ vị tức, 風塵苦未息,
Trì nhữ phụng minh vương. 持汝奉明王。
(năm 759)
Dịch nghĩa:
Cái này (thanh kiếm) được đem đến từ nơi xa xôi!, - Lại chẳng khắc chạm ngọc trai hay ngọc quý gì! – Vì sao có sự lạ lùng hiếm hoi này? – Thường mỗi đêm (nó) đã tỏa những tia sáng loáng ra bốn phía. (c.1-4)
Cái oai khí (như) con cọp cần phải vẫy vùng vượn lên, - Thân của loài rồng nên ẩn giấu chờ đợi. – Cơn gió bụi đã gây nên khổ đau vẫn chưangừng lại! – Hãy giữ lấy mày để dâng lên cho bậc vua sáng suốt! (c.5-8)
Tạm chuyển lục bát:
THANH KIẾM TỪ NƠI XA.
Cái này đưa đến từ xa,
Lắp vào châu báu ngọc ngà cũng không!
Vì sao có chuyện lạ lùng?
Những tia sáng loáng nhả thường mỗi đêm.
Oai loài hổ phải vùng lên!
Mình rồng nên phải giấu mình chờ lâu.
Chưa ngừng gió bụi khổ đau,
Giữ mày dâng đến vua nào sáng trong.
Chú thích
- trí 致: đưa đến, đem lại, trả lại, lui về, đạt tới, tỉ mỉ, kỹ càng, kín, trao cho, đặt để, đường lối, thái độ....
- tích(tịch) viễn 僻遠: nơi hoang vu, hẻo lánh, vắng vẻ lại xa xôi....
- phiên 蕃: sinh sôi, sum suê, hàng rào che chở, nghỉ ngơi. Thông với chữ phiên 番 (không có bộ thảo), chỉ người nước ngoài hay các dân tộc vùng biên giới xa xôi ngày xưa bên Trung Hoa như Phiên Ngung, Thổ phồn... v.v.... Nói chung, cái gì liên quan nước bên ngoài hay sản vật bên ngoài đến Trung Hoa họ gọi là phiên.
- châu ngọc trang 珠玉裝: trang trí, điểm trang, lắp đặt, chạm khắc... ngọc trai hay các loại ngọc quý.
- như hà: vì sao, tại sao.... Lý Thường Kiệt, danh tướng nhà Lý của Đại Việt trong bài thơ “Nam Quốc Sơn Hà 南國山河” có câu: ”Như hà nghịch lổ lai xâm phạm 如何逆虜來侵犯 (Vì sao bọn phản nghịch lại đến xâm phạm?)
- kỳ quái 奇怪: lạ lùng, hiếm lạ, quái gở, khó hiểu...
- mỗi 每: mỗi một, các, thường...
- thổ 吐: ói ra, nhả ra, mửa ra, tỏa ra (ánh sáng)...
- quang mang 光芒: tia sáng tỏa ra bốn góc...
- đằng trác 騰踔: vùng lên, chồm lên, vượt qua, vùng vẫy, nhảy, cưỡi...
- câu 5: hổ khí tất đằng trác 虎氣必騰踔: lấy ý từ câu chuyện vua Hạp Lư nước Ngô khi chết chôn theo thanh kiếm Biển Chư.Tinh khí của thanh kiếm này hóa làm con cọp trắng nằm giữ trên mộ...
- ninh 寧: yên ổn, thăm hỏi, lời thuận theo, nên, thà...
- tàng 藏: ẩn giấu, chứa đựng, trữ, ẩn nấp, kinh tạng (đạo Phật)...
- câu 6: long thân ninh cửu tàng 龍身寧久藏: lấy ý từ câu chuyện có kẻ đào trộm mộ Vương Tử Kiều thấy một thanh kiếm treo lơ lửng trong nhà mồ, muốn cầm lấy nhưng thanh kiếm kêu như tiếng rồng gầm rồi vụt lên cao bay mất!
- phong trần 風塵: gió bụi. Chỉ sự gian khó trong cuộc sống hay dùng để chỉ nạn chiến tranh gây đau khổ cho người dân. Đặng Trần Côn 鄧 陳 琨(khoảng 1720-1745, thời Lê Trung Hưng), tác giả Chinh Phụ Ngâm Khúc 征 婦 吟 曲 viết bằng Hán văn. Về sau,tác phẩm này được Đoàn Thị Điểm cũng như một số dịch giả khác diễn ra tiếng Nôm. Mở đầu CPNK,Đặng Trần Côn đã viết: “Thiên địa phong trần, Hồng nhan đa truân 天地風塵, 紅顏多舛...” Bà Đoàn Thị Điểm đã diễn Nôm: ”Thuở trời đất nổi cơn gió bụi, Khách má hồng nhiều nỗi truân chiên... 𣋾𡗶坦浽干𩙋𡏧, 客𦟐紅𡗉餒舛邅”.....
- trì nhữ 持汝: cầm lấy mày...
Bài 78
NGUYỆT DẠ 月夜
Kim dạ Phu Châu nguyệt, 今夜鄜州月,
Khuê trung chỉ độc khan. 閨中只獨看。
Dao liên tiểu nhi nữ, 遙憐小兒女,
Vị giải ức Trường An. 未解憶長安。
Hương vụ vân hoàn thấp, 香霧雲鬟濕,
Thanh huy ngọc tý hàn. 清輝玉臂寒。
Hà thì ỷ hư hoảng, 何時倚虛幌,
Song chiếu lệ ngân can? 雙照淚痕乾?
Dịch nghĩa:
Vầng trăng ở Phu Châu đêm nay, - Trong phòng khuê chỉ riêng (nàng) lẻ loi ngắm nhìn! – Thương cho cô con gái nhỏ nơi xa xôi, - Chưa ngừng nỗi nhớ về Trường An. (c.1-4)
Mùi hương thơm của sương mù thấm đẫm vào cuốn tóc mây, - Ánh sáng trong suốt (chiếu) nơi cánh tay ngọc giá lạnh. – Bao giờ sẽ tựa vào tấm rèm cửa mỏng manh?, - Để (ánh trăng) soi chiếu hai nơi cho ngấn lệ khô ráo!
Tạm chuyển lục bát:
VẦNG TRĂNG ĐÊM.
Phu Châu trăng ở đêm nay,
Phòng khuê riêng ngắm trong này lẻ loi!
Thương con gái nhỏ xa xôi,
Trường An nỗi nhớ chưa nguôi được rày.
Sương thơm đẫm cuốn tóc mây,
Ánh trong buốt lạnh cánh tay ngọc ngà.
Tựa rèm mỏng, biết bao giờ?
Đôi nơi ngấn lệ ráo khô chiếu vào!
Chú thích:
** Năm 756, đời Đường Minh hoàng ,Đỗ Phủ cùng gia đình từ Phụng Tiên về Bạch Thủy. Tháng 6, Bạch Thủy bị vây hãm bởi quân của An Lộc Sơn, Đồng Quan thất thủ .Đỗ Phủ lại đem gia đình đến Phu Châu (nay thuộc Thiểm Tây bên Trung Hoa).
Tháng 7, nghe tin Đường Túc tông lên ngôi ở Linh Vũ, ông tìm cách đến đó để ra mắt triều đình nhưng bị quân của An Lộc Sơn bắt giữ đem về Trường An. Vì chỉ làm chức quan nhỏ nên ông không bị giam tù. Bài “Nguyệt Dạ” này ra đời trong hoàn cảnh đó (Theo Trần Trọng San, Thơ Đường cuốn II, trang 99, NXB Bắc Đẩu, Saigon 1970)
- khuê 閨: phòng con gái hay phụ nữ ở, cửa tò vò, cửa nhỏ trong cung cấm...
- dao liên 遙憐: thương nhớ về nơi xa xôi...
- giải 解: thôi, ngừng, thông suốt, hiểu biết, cởi áo (giải y), bửa củi (giải mộc), mổ xẻ (giải phẩu), phân tích, trình bày hay giải thích cho rõ...
- vị giải ức 未解憶: chưa thôi, chưa ngừng nỗi nhớ....
- Trường An 長安: kinh đô nhà Đường...
- hoàn 鬟: tóc cuốn lại kiểu làm dáng nơi người con gái, con ở (nha hoàn)...
- thấp 濕: ướt đẫm, ẩm ướt, ẩm thấp....
- thanh huy 清輝: ánh sáng trong suốt, trong trẻo, ánh sáng tỏa chiếu trong vắt....
- tý 臂: cánh tay...
- hư 虛: giả, không thật, mỏng manh, yếu ớt, suy nhược, trống rỗng, thiếu, vơi...
- hoảng 幌: tấm rèm che cửa, màn cửa sổ...
- ngân 痕 (ngần): có dấu vết gọi là ngấn. Lệ ngấn: ngấn nước mắt còn dấu vết trên mặt...
(Lần đến: THƠ ĐỖ PHỦ bài 79, 80 và 81)
Dương Anh Sơn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét