THƠ TÔ ĐÔNG PHA - BÀI 19
Thầy Dương Anh Sơn
Bài 19
THỨ VẬN TĂNG TIỀM KIẾN TẶNG 次韻僧潛見贈
Đạo nhân hung trung thuỷ kính thanh, 道人胸中水鏡清,
Vạn tượng khởi diệt vô đào hình. 萬象起滅無逃形。
Độc y cổ tự chủng thu cúc, 獨依古寺種秋菊,
Yếu bạn tao nhân xan lạc anh. 要伴騷人餐落英。
Nhân gian để xứ hữu nam bắc, 人間底處有南北,
Phân phân hồng nhạn hà tằng minh. 紛紛鴻雁何曾冥。
Bế môn toạ huyệt nhất thiền tháp, 閉門坐穴㇐禪榻,
Đầu thượng tuế nguyệt không tranh vanh. 頭上歲月空崢嶸。
Kim niên ngẫu xuất vị cầu pháp, 今年偶出為求法,
Dục dữ tuệ kiếm gia lung hình. 欲與慧劍加礱硎。
Vân nạp tân ma sơn thuỷ xuất, 雲衲新磨山水出,
Sương tỳ bất tiễn nhi đồng kinh. 霜髭不翦兒童驚。
Công hầu dục thức bất khả đắc, 公侯欲識不可得,
Cố tri ỷ thị vô khuynh thành. 故知倚市無傾城。
Thu phong xuy mộng quá Hoài thuỷ, 秋風吹夢過淮水,
Tưởng kiến quất trục thuỳ không đình. 想見橘柚垂空庭。
Cố nhân các tại thiên nhất giác, 故人各在天㇐角,
Tương vọng lạc lạc như thần tinh. 相望落落如晨星。
Bành Thành lão thủ hà túc cố, 彭城老守何足顧,
Tảo lâm tang dã tương yêu nghinh. 棗林桑野相邀迎。
Thiên sơn bất đạn hoang điếm viễn, 千山不憚荒店遠,
Lưỡng cước dục sấn phi nhu khinh. 兩腳欲趁飛猱輕。
Đa sinh ỷ ngữ ma bất tận, 多生綺語磨不盡,
Thượng hữu uyển chuyển thi nhân tình. 尚有宛轉詩人情。
Viên ngâm hạc lệ bản vô ý, 猿吟鶴唳本無意,
Bất tri hạ hữu hành nhân hành. 不知下有行人行。
Không giai dạ vũ tự thanh tuyệt, 空階夜雨自清絕,
Thuỳ sử yểm ức đề cô quỳnh. 誰使掩抑啼孤煢。
Ngã dục tiên sơn xuyết dao thảo, 我欲仙山掇瑤草,
Khuynh khuông toạ thán hà thì doanh. 傾筐坐嘆何時盈。
Bạ thư tiên phốc tận điền uỷ, 簿書鞭撲盡填委,
Chử minh thiêu lật nghi tiêu chinh. 煮茗燒栗宜宵征。
Khất thủ ma ni chiếu trọc thuỷ, 乞取嘛呢照濁水,
Cộng khán lạc nguyệt kim bồn khuynh. 共看落月金盆傾。
Dịch nghĩa:
Người có được lẽ đạo ,tấm lòng bên trong sẽ trong suốt như tấm gương nơi mặt nước! – Muôn ngàn cảnh tượng sẽ bắt đầu mất hết nhưng không bỏ đi được dáng vẻ bên ngoài. – Ngôi chùa xưa lẻ loi vẫn y như cũ trồng hoa cúc vào mùa thu, - Mong làm bạn với người yêu thơ, như ăn tinh túy các loài hoa quý giá rơi rụng. (c.1-4)
Chốn tận cùng của cõi người có hướng nam, hướng bắc, - Vì sao chim hồng nhạn từng bị rối loạn trong chỗ tối tăm? – Đóng cửa, ngồi thiền trên giường hẹp trong hang, - Trên đầu năm tháng vắng lặng cao chất ngất! (c.5-8)
Hôm nay tình cờ (gặp ngài), đi ra (cửa) vì tìm cầu đạo pháp, - Muốn cùng thanh kiếm tuệ mài giũa thêm với cối đá xay. – Chiếc áo mới (của sư) chắp từng mảnh mây trời đã trui rèn, mài giũa để sông núi xuất hiện! – Ria mép như sương lại không cắt tỉa khiến trẻ nhỏ kinh hãi! (c.9-12)
Hạng công hầu muốn quen biết(với sư) nhưng không được! – Bạn xưa dựa vào chợ, không có được kẻ làm cho “thành trì nghiêng ngã”! – Cơn gió thu thổi giấc mộng qua sông Hoài, - Tưởng như thấy cam quýt đang buông rủ ngoài sân vắng vẻ. (c.13-16)
Các bạn xưa đều ở một góc trời, - Trông thấy nhau thưa thớt như sao trờilúc sáng sớm! – Vì sao đã già rồi lại ôm giữ ,ngóng trông Bành thành? – Rừng cây táo, cánh đồng dâu mời mọc, chờ đón nhau. (c.17-20)
Ngàn núi non hay quán xá hoang vắng xa xôi vẫn không e sợ, - Đôi chânmuốn đuổi theo loài vượn bay nhẹ nhàng. – Sinh ra nhiều lời nói hoa mỹ sáo rỗng mài giũa hoài vẫn không hết! – Vẫn còn có tình cảm tùy hòa của người làm thơ. (c.21-24)
Cội nguồn con vượn hú hay chim hạc kêu chẳng có ý riêng gì! -Không hề biết bên dưới có người đang đi. – Thềm vắng, đêm mưa , các âm thanh tự bặt tiếng, - Khiến cho ai đó cô quạnh kìm hãm tiếng khóc. (c.25-28)
Tôi muốn lên núi tiên nhặt nhạnh loài cỏ dao tinh sạch đẹp đẽ, - Nghiêng chiếc giỏ tre ngồi than thở, biết bao giờ cho giỏ đầy? – Ghi chép sổ sách, đánh roi đã làm xong hết! – Đốt củi dẻ nấu trà hợp với ban đêm khi phải đi xa. (c.29-32)
Xin lấy hạt ma ni (ngọc như ý của hoa sen) chiếu soi dòng nước đục, - Cùng nhìn ánh trăng rơi vào chậu vàng để nằm nghiêng! (c.33-34)
Tạm chuyển lục bát:
BÀI THƠ HỌA, KÍNH TẶNG SƯ ĐẠO TIỀM.
Tấm lòng ông đạo gương trong,
Sạch muôn cảnh tượng, không xa vẻ ngoài!
Cúc trồng chùa cũ lẻ loi,
Nhà thơ làm bạn, ăn loài hoa rơi!
Bắc nam - chốn đến cõi người,
Vì sao đêm tối loạn thôi nhạn hồng?
Ngồi giường thiền, đóng cửa hang,
8 Bầu trời cao ngất, tháng năm trên đầu!
Nay ra vì pháp vẫn cầu,
Muốn cùng gươm TUỆ mài vào cối xay.
Núi sông xuất, áo cài mây,
Râu ria chẳng tỉa hãi bầy trẻ thôi!
Công hầu chẳng được quen rồi,
Bạn xưa ở chợ không người “thành nghiêng”!
Gió thu Hoài Thủy mộng sang,
Thấy như sân vắng quýt cam rủ vời.
Bạn xưa đều ở góc trời,
Trông nhau: sao sớm ít oi sáng ngày!
Bành Thành già giữ chi đây?
Nương dâu rừng táo rày mong đón chào.
Ngàn non, quán vắng ngại đâu!
Đôi chân theo vượn bay sao nhẹ vờn.
Giũa mài chẳng hết sáo trơn,
Tình người hòa ái, thơ còn nêu cao.
Hạc kêu, vượn hú ý đâu?
Người đi bên dưới: đi nào biết chăng?!
Đêm mưa thềm vắng lặng tăm,
Khiến ai cô quạnh nghẹn thầm tuôn châu.
Núi tiên muốn nhặt cỏ dao,
Ngồi than nghiêng giỏ, khi nao sẽ đầy?
Đánh roi, soạn sách xong ngay!
Nấu trà ,đốt dẻ đêm rày xa xôi.
“Ma ni” nước đục xin soi!
Cùng nhau nghiêng ngắm trăng rơi chậu vàng.
Chú thích:
*** Tăng Tiềm tức sư Đạo Tiềm, quê vùng Tiền Đường, một người bạn rất thân với Tô Đông Pha(cố tri) có biệt hiệu là Sâm Liêu Tử. Bài này làm năm 1078 đời Tống Thần Tông.
- thứ vận 次韻: những vần thơ làm sau. Đây là cách nói bài thơ họa lại sau những vần thơ của nhà sư Đạo Tiềm, một người bạn rất thân với TôThức. ”Thứ vận” cũng như “họa vận 和韻”: tức là làm thơ để đáp lại bài thơ người khác đã tặng mình theo đúng vần hay còn gọi là “thứ đệ 次第” của bài thơ đó
- kiến tặng 見贈: tặng cho người khác với lòng kính trọng...
- đạo nhân 道人: người có sự tu dưỡng đã đạt được ít nhiều những đạo lý sâu xa...
- hung trung 胸中: hung: ngực. Chỉ tấm lòng bên trong của con người...
- kính thanh 鏡清: trong lắng, sạch bóng như mặt gương soi...
- vạn tượng 萬象: muôn vàn cảnh tượng là những dạng vật chất hiển lộ ra bên ngoài chịu sự tác động của lẽ vô thường - theo cách nói của đạo Phật- hay biến dịch,đổi thay – theo cách nói của đạo Lão...
- khởi diệt 起滅: từ ngữ của đạo Phật chỉ sự hoàn toàn lắng tâm, dứt sạch hay buông bỏ các hiện tượng tác động lên tâm trí...
- đào hình 逃形: quên đi, bỏ mất ,tránh bỏ... v.v... những hình tượng hình dáng, sắc thái, dáng vẻ thể hiện bên ngoài của cái ngã...
- y cổ tự 依古寺: chùa xưa vẫn y như cũ...
- yếu bạn 要伴: muốn,cầu gần gũi bạn bè thân thiết...
- tao nhân 騷人: nhà thơ hay nhà văn. Khuất Nguyên, người nước Sở bên Trung Hoa xưa, tác giả tập “Sở Từ 楚辭” có bài thơ “Ly Tao 離騷”, nên người về sao gọi ông là “tao nhân”.
- anh 英: loài hoa đẹp nhất trong các loài hoa, hoa của loài cây cỏ , tinh túy của loài hoa hay sự vật, người có tài năng hơn người...
- để 底: đi đến, bên dưới đáy, đọng lại...
- phân phân 紛紛: hỗn loạn, lộn xộn, đông đảo, nhiều, phiền nhiễu...
- hà tằng minh 何曾冥: vì sao đêm tối đã từng....
- thiền tháp 禪榻: chiếc gường hẹp và dài để các thiền sư ngồi thiền định và nằm nghỉ...
- không tranh vanh 空崢嶸: cao chất ngất (tranh vanh) trên bầu trời vắng lặng (không)....
- ngẫu xuất: đi ra ,dời ra bên ngoài một cách tình cờ...
- pháp: từ “Pháp” trong đạo Phật được dịch theo tiếng Bắc Phạn (Sanskrit) là Dharma hay Nam Phạn (Pali) là Dhamma. Pháp là một trong ba ngôi báu còn gọi là Tam Bảo gồm Phật ,Pháp và Tăng. Riêng “Pháp” chỉ chung những lời dạy của đức Phật về đạo đức (sīla), về thiền định (samādhi), về trí tuệ (paññā), về sự giác ngộ (bodhi) và giải thoát (vimutti). Tuy nhiên, với đạo Phật việc thực hành những lời Phật dạy mới là điều cần thiết được gọi là “pháp
hành” trong đó việc thực hành Giới Định và Tuệ là con đường đi đến giải thoát. Pháp hành ở cấp bậc thấp là “tục đế”( paññatti, nirutti) và cao hơn là“chânđế”( paramattha sacca) cho đến khi thực sự giác ngộ rốt ráo. Nói khác hơn, Pháp hành là con đường giải thoát đích thực phải kinh qua việc thực hành. Nếu chỉ dừng lại ở “chân đế” mới đạt được mà không tầm cầu pháp cao hơn nó sẽ trở thành “tục đế”.... Đức Phật thường dạy: ”Ai thấy pháp, người đó thấy Như Lai”..... Việc “Cầu pháp” chính là sự tìm kiếm, mong cầu để giác ngộ từng bước qua sự tu học cho đến khi giải thoát cuối cùng là sự giác ngộ lẽ đạo rốt ráo. (I).
- tuệ 慧: Tuệ, tiếng Bắc Phạn đọc là Prajñā, Nam Phạn đọc là paññā, người Hoa dịch là “bát nhã 般若 “ là một pháp môn nền tảng trong “ Tam vô lậu học” gồm Giới ,Định và Tuệ nhằm vượt thoát sự phiền não(lậu) đi đến sự giải thoát . Không đạt đến Tuệ tức là sự hiểu biết ,nhận thức đến cốt tủy những lời đức Phật dạy sẽ khó đạt đến ý nghĩa rốt ráo của sự giác ngộ thông qua những những định luật nhân quả ,sinh lão bệnh tử, lý nhân duyên, lẽ vô thường ,bát chánh đạo ... v.v... Ba pháp môn này tương thông, qua lại, gắn kết với nhau để giúp người tu học đạt đến trí tuệ giải thoát của kẻ giác ngộ lẽ đạo......
- ”Tuệ kiếm” 慧劍 hay là thanh gươm của Trí tuệ phải rất sắc bén để chặt đứt phiền não, vô minh ,tham sân si,.. v.v... hầu đạt đến giảithoát . Tuy nhiên, trong câu thơ này, Tô Đông Pha, một con người am tường đạo Phật, đã chỉ rõ “tuệ kiếm” cần phải “gia lung hình”(thêm việc mài giũa thường xuyên, tu tập thường xuyên mới đủ độ sắc bén chấm dứt vô minh, phiền não, tham sân si... (tập khổ và diệt khổ trong bốn diệu đế)
- nạp: cái áo của sư tăng được chắp từ các mảnh vải nhỏ... Trong câu này, Tô Thức cũng cho chúng ta thấy nhờ thiền định, sư Đạo Tiềm khi ra khỏi động ẩn tu đã là một con người thanh thoát như mây trời (vân nạp) sau việc tu tập đã ra công mài giũa để có cái mới mẻ (tân ma) về đạo pháp và cái nhìn về “sơn thủy”, vạn vật cũng xuất hiện mới mẻ theo việc giũa mài,tu tập đó...
- sương tỳ 霜髭: hơi sương bám vào bộ ria mép...
- khuynh thành 傾城: Làm nghiêng đổ thành trì. Lí Diên Niên 李延年 trong “Hiếu Vũ Lí phu nhân truyện 孝武李夫人傳” có câu thơ: “Bắc phương hữu giai nhân, Tuyệt thế nhi độc lập, Nhất cố khuynh nhân thành, Tái cố khuynh nhân quốc” 北方有佳人, 絕世而獨立, 一顧傾人城, 再顧傾人國 nghĩa là: Phương bắc có người đẹp, Trên đời không ai sánh kịp mà vẫn đứng riêng một mình, Khi nhìn qua khiến nghiêng thành của người,khi nhìn lại khiến nghiêng nước của người.
- Hoài Thủy 淮水: hay còn gọi là Hoài Hà 淮河, phụ lưu của Hoàng Hà. Đây là con sông lớn thứ tư bên Trung Hoa sau Dương Tử Giang,Hoàng Hà và Châu Giang . Sông Hoài nằm giữa hai con sông lớn nhất chảy theo hướng tây đông nhưng không chảy ra biển nên thường gây ra nạn ngập lụt.
- liêu lạc: lác đác, thưa thớt, thờ ơ, thong dong....
- Bành Thành 彭城: còn được gọi là Từ Châu 徐州, một địa danh nổi tiếng trong lịch sử của người Trung Hoa, nay thuộc tỉnh Giang Tô. Nơi vùng đất này đã xảy ra cuộc chiến quyết liệt tranh giành lãnh thổ và quyền bính nắm giữ Trung Hoa giữa Hán vương Lưu Bang và Tây Sở Bá vương Hạng Vũ (xem Hán Sở tranh hùng 漢楚爭雄, Sở Hán chiến tranh 楚漢戰爭, Sở Hán tương tranh 楚漢相爭 hay Sở Hán Xuân Thu 楚漢春秋 ...v..v..). Năm 205 TCN, Hạng vương nghe tin quân Hán vào Bành Thành Vũ đã dùng kế nghi binh. Hạng Vũ sai các tướng đi đánh nước Tề còn mình dẫn ba vạn tinh binh đi về hướng tây qua Tiêu huyện đánh một bộ phận quân Hán ở đây rồi quặt về hướng đông tiến đánh và vây chặt Bành Thành .Quân Hán hoảng sợ thi nhau bỏ chạy nhảy xuống sông Cốc và sông Tứ.Mười vạn quân Hán bị giết. Đám quân còn lại hơn mười vạn bị truy đuổi gắt gao thiệt hại nhiều và bị dồn phải nhảy xuống dòng Tuy Thủy chết như rạ làm dòng sông không thể chảy được (theo Sử Ký)
- tương yêu nghinh 相邀迎: cùng mời chào nghênh đón...
- bất đạn 不憚: không hoảng sợ, không e ngại, run sợ...
- dục sấn 欲趁: muốn đuổi theo...
- nhu 猱: một loài vượn hay phá phách...
- ỷ ngữ 綺語: lời nói văn hoa sáo rỗng, thêu dệt...
- uyển chuyển 宛轉: thái độ hòa ái, dịu dàng, tùy hòa thu xếp khéo léo, âm thanh véo von trầm bổng...
- yểm ức 掩抑: khép lại, đóng lại, đè nén, ngăn trở, ép buộc...
- cô quỳnh 孤煢: côi cút, trơ trọi, cô độc...
- xuyết 掇: nhặt nhạnh, thu thập, chọn lựa, hứng lấy, cướp bóc...
- dao thảo 瑤草: loài cỏ đẹp như ngọc dao, loài cỏ tinh sạch sáng sủa...
- bạ thư 簿書: sổ sách ghi chép công việc....
- tiên phốc 鞭撲: đánh đập bằng roi, hình phạt bằng trượng...
- điền ủy 填委: văn thư chồng chất ,bề bộn...
- chử mính 煮茗: nấu, đun trà, nấu nõn chè...
- thiêu lật 燒栗: đốt bằng cây lật, cây dẻ lửa rất chắc bền...
- tiêu chinh 宵征: đi trong đêm ...
- ma ni 嘛 呢: trong tiếng Phạn có câu chân ngôn cầu Quán thế Âm Bồ tát: “Om mani padme hūm̐“ nghĩa là ngọc như ý trong hoa sen ,tinh anh trong hoa sen. Người Hán đã dịch là: Úm ma ni bát ni hồng 唵 嘛 呢 叭𡁠 吽” (hay ”Án ma ni bát mê hồng”). Vì là phiên âm từ tiếng Phạn nên có bản đã ghi: 摩尼 đọc theo âm Hán vẫn là ma ni.)
(Lần đến THƠ TÔ ĐÔNG PHA: bài 20, 21 và 22)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét