Nhưng ý thức hệ quốc gia hay chủ nghĩa
quốc gia Việt Nam là gì và lý do ý thức hệ cộng sản thắng thế vẫn chưa được tìm
hiểu và phân tích cặn kẽ để biết đâu là sự thật.
Chủ nghĩa quốc gia đến với Việt Nam
Trước thế kỷ thứ 20, nước là của vua,
dân là con vua, việc bảo vệ và mở mang bờ cõi là trách niệm của nhà vua, làm
dân có bổn phận phải trung thành với vua và sẵn sàng chết theo lệnh của nhà vua.
Cụ Phan Chu Trinh, cụ Phan Bội Châu là
hai trong số những người Việt quốc gia đầu tiên, một người chịu ảnh hưởng chủ
nghĩa quốc gia Pháp còn một người chịu ảnh hưởng chủ nghĩa quốc gia Trung Hoa
và Nhật Bản, nên có hai khuynh hướng phụng sự quốc gia rất khác biệt.
Nhà cách mạng Nguyễn Thái Học (Quốc Dân
Đảng), Đức Huỳnh Phú Sổ (đạo Hòa Hảo), Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc (đạo Cao Đài),
Vua Bảo Đại, ông Phạm Quỳnh, ông Ngô Đình Diệm, ông Trần trọng Kim, học giả Lý
Đông A (đảng Duy Dân), ông Trương Tử Anh (đảng Đại Việt) và rất nhiều người
khác là những người Việt quốc gia của thời kỳ tiếp theo.
Những người kể trên về mặt tư tưởng họ
khác nhau một trời một vực, có khi còn đối chọi với nhau, cho thấy ở thời điểm
1945 vẫn chưa có một hệ tư tưởng có thể coi là hệ tư tưởng quốc gia hay chủ
nghĩa quốc gia.
Năm 1949 khi người Pháp trao trả độc lập
cho Việt Nam, Quốc trưởng Bảo Đại đặt tên nước là Quốc Gia Việt Nam, lập Quân
Đội Quốc Gia, Chính Phủ Quốc Gia, và cờ Vàng ba sọc đỏ được gọi là cờ Quốc Gia.
Vua Bảo Đại từ lâu đã muốn xây dựng một chủ nghĩa quốc gia riêng cho Việt Nam, nhưng vì hoàn cảnh đất nước chưa hoàn toàn độc lập, và vẫn còn chiến tranh nên không thực hiện được ý muốn.
Chủ nghĩa quốc gia là gì ?
Là hệ tư tưởng soi sáng và hướng dẫn
chúng ta làm những việc có ý nghĩa, có đạo đức, biết việc gì cần làm và tạo cho
chúng ta sáng kiến đạt được kết quả tốt nhất trong cạnh tranh sinh tồn và phát
triển đất nước.
Mỗi quốc gia đều có những khác biệt về
lịch sử, sắc tộc, văn hóa, xã hội, kinh tế, chính trị, bởi thế chủ nghĩa quốc
gia Việt Nam phải khác hẳn với chủ nghĩa quốc gia ở các quốc gia khác.
Chủ nghĩa quốc gia Việt Nam phải nối kết
được những tư tưởng, những tình cảm, những truyền thống, những ước mong, những
ý hướng trong tâm trí của mọi người thuộc mọi sắc tộc sống trên đất nước Việt
Nam.
Có chủ nghĩa quốc gia mới có thể định
hình được một cách rõ rệt những khái niệm về tổ quốc, về nòi giống, về lòng yêu
nước, về tình đồng bào, xây dựng lý tưởng làm chuẩn mực cho đời sống của người
Việt Nam.
Chủ nghĩa quốc gia chính là những nguyên
tắc căn bản để chính phủ đề ra những chiến lược và
đường lối kinh tế, văn hóa, xã hội hợp lòng dân và để người dân biết cách suy nghĩ và
hành động vì lợi ích quốc gia dân tộc.
Việt Nam chưa có hệ tư tưởng quốc gia
Tháng 8/1945, cộng sản nổi dậy cướp
chính quyền, đến năm 1947 khi những người Việt quốc gia muốn ôn hòa giành lại
độc lập phải cộng tác với người Pháp thì đảng cộng sản cướp luôn cả chính nghĩa
quốc gia.
Trong hoàn cảnh chiến tranh những người
Việt quốc gia chỉ duy trì tinh thần quốc gia rời rạc,
không thể kết lại một cách chặt chẽ như một ý thức hệ hay một hệ tư tưởng có
luận lý (lô gích), có đạo
đức, dựa trên lợi ích quốc gia và dân tộc.
Vì thiếu một ý thức hệ quốc gia làm căn
bản nên người quốc gia và các đảng phái quốc gia liên tục chia rẽ không thể tập
trung được sức mạnh chiến đấu và tồn tại trong hoàn cảnh chiến tranh 1945-75.
Xem lại Đệ Nhất Cộng Hòa
Chính phủ Đệ Nhất Cộng Hòa thay vì tìm
cách xây dựng ý thức hệ quốc gia, lại lo xây dựng chủ nghĩa nhân vị ông Cao
Xuân Vỹ Thủ lãnh Phong trào Thanh niên Cộng Hòa từng nghe Tổng thống Ngô Đình
Diệm than phiền:
“Ngay cả đến các vị Bộ trưởng cũng không
hiểu được (chủ nghĩa) nhân vị là gì, thì làm sao mà chúng ta thực hiện được
cuộc cách mạng quốc gia ?”
Ông Diệm nói rất đúng vì khi tầng lớp
lãnh đạo không hiểu được đường lối chiến lược quốc gia thì làm sao tầng lớp cán
bộ có thể hiểu được để truyền bá chính nghĩa (việc làm đúng).
Và làm sao người dân, nhất là những nông
dân chiếm đến 90% dân số lại có thể biết đến đường lối, chiến lược và viễn kiến
của tầng lớp lãnh đạo quốc gia.
5 năm vàng son 1955-60 nhanh chóng trôi
qua, khi cộng sản từ miền Bắc bắt đầu xâm nhập và cộng sản ở miền Nam nổi dậy,
thì rõ ràng Việt Nam Cộng Hòa không có một chủ nghĩa đúng mức để vừa giữ được
đất, vừa giữ được dân.
Chính phủ Mỹ sợ cộng sản thắng thế muốn
trực tiếp mang quân vào tham chiến thì bị Tổng thống Ngô Đình Diệm phản đối họ
mới nhúng tay vào cuộc đảo chánh 1/11/1963 lật đổ nền Đệ Nhất Cộng Hòa.
Mỹ Hóa chiến tranh
Miền Nam lọt vào vòng khủng hoảng chính
trị, đảo chánh này sang đảo chánh khác, miền quê càng ngày càng mất an ninh,
nhiều địa phương sáng quốc gia đêm cộng sản.
Ngày 8/3/1965, Thủy quân lục chiến Mỹ đổ
bộ vào bãi biển Đà Nẵng, người Mỹ mở rộng chiến tranh thả bom miền Bắc và trực
tiếp điều khiển chiến tranh từ Tòa Bạch Ốc và Ngũ Giác Đài.
Người Mỹ nhúng tay đảo chánh Tổng thống
Ngô Đình Diệm đã là một sai lầm lớn, việc Mỹ hóa chiến tranh Việt Nam là sai
lầm lớn hơn khiến họ phải trả một giá rất đắt về sinh mạng và tiền bạc.
Cho đến phút cuối người Mỹ vẫn không
hiểu người Việt cả phía quốc gia lẫn bên cộng sản, nên trong chiến tranh Việt
Nam người Mỹ liên tục mắc sai lầm là nguyên nhân chính dẫn đến ngày 30/4/1975.
Chiến tranh càng leo thang, người miền
Nam càng phải tập trung bảo vệ miền Nam, nên càng ít quan tâm đến mặt lý thuyết
xây dựng một ý thức hệ quốc gia.
Nói về Chủ nghĩa tự do
Khi ý thức hệ quốc gia chưa hình thành
và khi người Mỹ đổ quân vào miền Nam chủ nghĩa tự do kiểu Mỹ đã phát triển một
cách vô cùng mạnh mẽ.
Trong thời chiến cá nhân cần đặt lợi ích
quốc gia và dân tộc bên trên, thì chủ nghĩa tự do lại dựa vào cá nhân để phát
triển từ văn hóa, xã hội, kinh tế và nhất là chính trị (thể chế dân chủ pháp
trị).
Một số thí dụ dưới đây cho thấy phần nào
chủ nghĩa tự do đã dẫn đến ngày 30/4/1975.
Ở miền Nam tự do báo chí không khác gì ở
Mỹ các nhà lãnh đạo thường xuyên được đưa lên mặt báo.
Tờ Tin Sáng là nhật báo đối lập với
Chính phủ có mục “Tin Vịt” do “Tư trời biển” viết nêu đích danh Tổng thống Nguyễn
Văn Thiệu là tham quyền cố vị, hiếu chiến, thất học, tham nhũng, bất tài hay
gọi ông là "Tổng Thẹo", "Sáu Thẹo"…
Báo chí có quyền chỉ trích Chính phủ và
chỉ trích cá nhân các nhà lãnh đạo miễn là không nhằm mục đích tuyên truyền cho
cộng sản, nhưng các tờ báo vẫn thường dịch các bài viết từ phe cánh tả chống
chiến tranh thì có khác gì tiếp tay tuyên truyền cho cộng sản.
Báo chí ngoại quốc cũng được tự do xuất
bản tại miền Nam, người Việt vốn suy nghĩ người ngoại quốc đưa tin khách quan
và trung thực, nên nhiều bài viết thuộc phe cánh tả chống chiến tranh cũng được
rất nhiều người đọc và tin theo.
Về truyền hình thì có đài Quân đội Hoa
Kỳ phát trên băng tần số 11 đưa những hình ảnh chiến trường mà lính Mỹ thua đến
nỗi phải tháo chạy bằng các trực thăng, những hình ảnh này ảnh hưởng nặng đến
tâm lý người Việt và rất có lợi cho phe cộng sản.
Giáo dục thì phi chính trị nên học sinh
và sinh viên đều ít quan tâm đến tình trạng đất nước, một số còn xuống đường
biểu tình chống chiến tranh hay leo núi theo cộng sản, số khác sống phóng túng,
đua đòi theo cách sống Hippie kiểu Mỹ…
Văn học, âm nhạc, nghệ thuật ở miền Nam
bao gồm đủ mọi khuynh hướng, từ tự do cá nhân, đến chuyện đất nước, tình tự dân
tộc, nhân bản, khai phóng, hiện thực, chống chiến tranh và chống cả chính phủ.
Kinh tế thì tự do nên vì tiền mà một số
thương gia sẵn sàng cung cấp hàng hóa cho cộng sản hay đầu cơ tích trữ phá hoại
thị trường và cũng vì tiền mà một số giới chức tham nhũng đã tiếp tay với gian
thương nuôi dưỡng cộng sản.
Ngay trong Quốc Hội, Khối Đối Lập liên
tục chỉ trích Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, họ còn chủ trương nói chuyện với Mặt
Trận Giải Phóng Miền Nam (một tổ chức ngoại vi của đảng Cộng sản), chính trị
miền Nam không khác gì sinh hoạt chính trị tại Hoa Kỳ.
Tự do thua cộng sản?
Một số người quan sát cuộc chiến ở miền
Nam rồi vội vã cho rằng chủ nghĩa cộng sản đã thắng chủ nghĩa tự do.
Nhưng nếu so Tây Đức và Đông Đức, Nam
Hàn và Bắc Hàn, Trung Quốc và Đài Loan, Khối Tự Do chống lại Khối Cộng Sản thì
rõ ràng ý thức hệ tự do đã là bên thắng cuộc.
Đại Hàn và Đài Loan là hai quốc gia Á
châu bị phân đôi, chủ nghĩa quốc gia ở đó đã phát triển thành những ý thức hệ
có thể đón nhận và hài hòa chủ nghĩa tự do kiểu Mỹ.
Sau một quá trình chọn lọc nhiều thập
niên cho mãi đến những năm đầu của thập niên 1990 Đài Loan và Nam Hàn mới tiến
hành dân chủ hóa đất nước của họ.
Còn Việt Nam Cộng Hòa vì chưa có được một chủ nghĩa quốc gia, một ý thức hệ quốc gia, một hệ tư tưởng hướng dẫn, nên chủ nghĩa tự do đã phản tác dụng phá hoại và tiêu hủy nền Cộng Hòa non trẻ ở miền Nam Việt Nam.
Theo tôi, đây là bài học cho cả hôm nay: Việt
Nam vẫn đang cần chủ nghĩa quốc gia
Chiến tranh đã chấm dứt hơn 46 năm, so
với các quốc gia trong vùng, Việt Nam vẫn thua kém cũng vì thiếu một chủ nghĩa
quốc gia đúng đắn.
Trước thời chiến tranh Đài Loan và Đại
Hàn về kinh tế chỉ tương đương với Việt Nam, nhưng ngày nay hai quốc gia này đã
vượt xa chúng ta.
Đài Loan và Đại Hàn áp dụng chiến lược
xuất cảng thúc đẩy tăng trưởng (export led growth strategy), nhưng nhờ họ có
được hệ tư tưởng quốc gia vững chắc, nên có được chiến lược xây dựng kinh tế
dựa trên nội lực quốc gia và kết quả tăng trưởng kinh tế thuộc về người dân của
xứ họ.
Hà Nội cũng áp dụng chiến lược xuất cảng
thúc đẩy tăng trưởng nhưng lại xây tổ đón phượng hoàng xứ người, nên người Đài
Loan và người Đại Hàn nay đã trở thành những ông chủ, những con phượng hoàng
trên đất nước Việt Nam.
Còn người Việt phải làm công bộc cho chủ
nhân ngoại quốc hay phải sang tận xứ người để làm công cho họ.
Chiến lược tăng trưởng dựa trên xuất
cảng biến Việt Nam thành một quốc gia lắp ráp trong chuỗi dây chuyền sản xuất
của các công ty đa quốc gia.
Việt Nam được giao cho sản xuất các mặt
hàng dựa trên lao động tay chân mang lại rất ít giá trị gia tăng cho quốc gia.
Các nghiệp đoàn tự do bảo vệ quyền lợi
công nhân thì chưa có nên người Việt làm công nhận được một mức lương thật
thấp, thậm chí không đủ sống qua ngày, còn lợi nhuận thì vào tay tư bản ngoại
quốc và được họ đưa về chính quốc.
Dựa trên tỉ lệ thương mãi xuất và nhập
cảng, Việt Nam nay là nước có mức độ toàn cầu hóa cao nhất thế giới, nguyên
liệu chủ yếu phụ thuộc vào nhập cảng từ Trung Quốc và sản phẩm sản xuất thì chủ
yếu xuất cảng sang Mỹ.
Chủ quyền kinh tế nay phụ thuộc nặng nề
vào hai quốc gia này, Hoa Kỳ đe dọa trừng phạt kinh tế cũng sợ, mà Trung Quốc
đe dọa trừng phạt kinh tế thì cũng lo.
Nếu các hãng xưởng Đài Loan và Đại Hàn
rút khỏi Việt Nam thì nền kinh tế Việt Nam xem như sụp đổ, rõ ràng chủ quyền
quốc gia Việt Nam đã bị lệ thuộc quá nặng vào ngoại bang.
Còn các mặt khác như văn hóa, giáo dục,
xã hội, chính trị, và cả quân sự Việt Nam đều thua xa hai quốc gia Đài Loan và
Đại Hàn.
Ở trong nước ai biểu lộ bất đồng chính
kiến thì bị đảng Cộng sản cho công an cô lập và đàn áp.
Người Việt hải ngoại sống trong môi
trường tự do nhưng vì thiếu một chủ nghĩa quốc gia dẫn dắt nên người đấu tranh
luôn bị động, chẳng ai nghe ai, càng ngày càng chia rẽ và càng xa lìa chính
những đồng hương đang sống ở hải ngoại.
Ôn lại lịch sử Việt Nam Cộng Hòa và nhìn
vào hiện tình đất nước, người Việt muốn giữ được chủ quyền quốc gia vẫn cần
phải xây dựng một hệ tư tưởng cho chính người Việt Nam, một chủ nghĩa
quốc gia Việt Nam vẫn thật sự cần thiết.
Nguyễn
Quang Duy
Melbourne, Úc Đại Lợi
18/5/2021
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét