Thứ Bảy, 22 tháng 5, 2021

Thanh Hiên Thi Tập - Bài 17, 18, 19

 


THANH HIÊN THI TẬP - BÀI 17, 18, 19
Thầy Dương Anh Sơn 

Bài 17

TỐNG NGUYỄN SĨ HỮU NAM QUY        送阮士有南歸

Nam Sơn hữu điểu hàm tinh hoa,                   
南山有鳥含精華
Phi khứ phi lai khinh võng la.                          
飛去飛來輕網羅
Hồng Lĩnh hữu nhân lai tố chủ                         
鴻嶺有人來做主
Bạch đầu vô lại bất hoàn gia.                           
白頭無賴不還家
Sinh bình văn thái tàn lung phượng,               
生平文彩殘籠鳳
Phù thế công danh tẩu hác xà.                         
浮世功名走壑蛇
Quy khứ cố hương hảo phong nguyệt,           
歸去故鄉好風月
Ngọ song vô mộng đáo thiên nha (nhai).         
午窗無夢到天涯
Nguyễn Du                                                      

   
Tạm chuyển lục bát:

ĐƯA TIỄN NGUYỄN SĨ HỮU VỀ NAM

Tinh hoa chim ngậm núi Nam,
Bay đi, bay lại lưới giăng coi thường.
Có người làm chủ núi Hồng,
Ra chi đầu bạc vẫn không về nhà.
Dáng văn lồng phượng phôi pha,
Rắn vào hang trốn những là danh suông.
Gió lành trăng đẹp quê hương,
Giữa trưa chẳng mộng bên song góc trời.

Dịch nghĩa:
Núi Nam có loài chim ngậm trong miệng những chất tinh túy đẹp đẽ cứ bay đi, bay lại xem thường lưới võng giăng mắc. Dãy núi Hồng Lĩnh đã có người đến làm chủ. Đầu đã bạc phơ, chẳng ra sao cả (ta) vẫn chưa trở về nhà. Dáng vẻ văn chương rực rỡ trong cuộc đời (ta) tàn phai như con chim phượng bị nhốt trong chiếc lồng tre. Chuyện công danh bèo nổi trong đời như con rắn trốn chạy vào trong hang hốc. Trở về chốn quê hương xưa, (anh) được sống với gió mát trăng thanh tốt lành. Giấc trưa bên cửa sổ, không còn mơ mộng đến những chân trời xa tít.

Chú thích:
**  Nguyễn Du tiễn bạn được về quê hương có lẽ trấn nhậm vùng Hồng Lĩnh (Hà Tĩnh) (Câu 1, 2, 3 và 7,8). Nhìn lại mình, ông thấy tài văn chương của mình phải tàn phai theo năm tháng với mái tóc nhuốm bạc (Câu 4, 5 và 6).

- tinh hoa : cái cốt lõi được chắt lọc tốt đẹp nhất.
- võng la : bẫy bằng lưới để giăng bắt chim trời.
- tố chủ 做主: làm chủ một công việc nào đó.
- vô lại 無 賴: chẳng ra sao, không ra gì; cuộc sống không ổn định không được tốt lắm.
- văn thái 文 彩: dáng vẻ văn chương đẹp đẽ, tươi sáng.
- lung 籠: chiếc lồng để nhốt chim làm bằng tre.
- thiên nha 天 涯: xem chú thích bài 1 (U Cư). 
 
 Bài 18

 
HỌA HẢI ÔNG ĐOÀN NGUYỄN TUẤN   俊「甲   
“GIÁP DẦN PHỤNG MỆNH NHẬP PHÚ     
友」之             XUÂN KINH ĐĂNG TRÌNH LƯU BIỆT BẮC THÀNH CHƯ HỮU” CHI TÁC
 

Hoành Sơn sơn ngoại lĩnh nam trình,                        橫山山外嶺南程
Cầm kiếm tương tuỳ thướng ngọc kinh.                    
琴劍相隨上玉京
Thố tuỷ vị hoàn tân đại dược,                                    
兔髓未完新大藥
Báo bì nhưng lụy cựu phù danh.                                
豹皮仍累舊浮名
Thương minh thuỷ dẫn bôi trung lục,                        
滄溟水引杯中綠
Cố quốc thiềm tuỳ mã hậu minh.                               
故國蟾隨馬後明
Thử khứ gia huynh như kiến vấn,                              
此去家兄如見問
Cùng đồ bạch phát chí tinh tinh.                                
窮途白髮正星星
(Trích Hải Ông Thi Tập)                                       
(摘海翁詩集)
Nguyễn Du                                                               

   
Tạm chuyển lục bát:

HỌA BÀI THƠ: “NĂM GIÁP DẦN VÂNG LỆNH VÀO KINH ĐÔ PHÚ XUÂN, LÀM LÚC CHIA TAY VỚI BẠN BÈ Ở BẮC THÀNH” CỦA HẢI ÔNG ĐOÀN NGUYỄN TUẤN

Hoành Sơn ngoài ấy vào Nam,
Kinh đô hướng đến gươm đàn theo bên.
Chưa xong tủy thỏ thuốc tiên!
Danh suông, da báo lụy phiền mãi thôi.
Biển xanh chén ánh biếc vời,
Quê xưa theo ngựa sáng ngời ánh trăng
Anh nhà gặp gỡ hỏi thăm,
Đường cùng từng sợi bạc phăng mái đầu.
(Trích từ Hải Ông Thi Tập)

Dịch nghĩa:
Bên ngoài dãy Hoành Sơn, lên đường hướng vào kinh thành mang theo cây đàn và thanh gươm. Lấy tủy thỏ để làm thuốc thần mới chưa xong, (ông) đã phải chịu lụy danh suông  như con báo bị lụy vì tấm da. Nước biển xanh dẫn đến chiếc chén rượu màu xanh biếc. Vầng trăng ở quê cũ đi theo sau vó ngựa. Ra đi lần này, anh tôi có gặp và thăm hỏi, (hãy nói) tôi đang bước đường cùng, mái tóc trên đầu từng sợi đã thêm bạc trắng.

Chú thích:
** Đoàn Nguyễn Tuấn đỗ Hương Cống đời Lê, là anh vợ của Nguyễn Du, ra giúp Tây Sơn, làm đến chức Tả Thị Lang Bộ Lại, tước Hải Phái Hầu, có tập thơ để lại là “Hải Ông Thi Tập”.
- Hoành Sơn 橫 山: dãy núi dài độ 50 km chắn ngang dãy Trường Sơn, nằm ở phía nam Hà Tĩnh và phía bắc Quảng Bình, thông thương bởi đèo Ngang.
- hoàn 完: làm xong, hoàn tất, trọn vẹn, vững chắc.
  - đại dược 大 藥: thuốc có hiệu quả lớn, có khả năng điều trị tốt mà dân gian gọi là thần dược.
- nhưng 仍: vẫn như cũ, mãi luôn, nhân vì.
- phù danh 浮 名: danh tiếng suông, không thiết thực, danh lợi ở đời nổi trôi không có gì  bền vững.
- thương minh 滄 溟: tựa như “thương hải” 滄 海 . Chỉ biển lớn .
- báo bì 豹 皮: Vương Ngạn Chương thời Ngũ Đại T.H có câu: “Báo tử lưu bì, nhân lưu danh” (Báo chết để da, người chết để tiếng).
- thiềm 蟾: con thiềm thừ, con cóc; theo điển xưa vợ Hậu Nghệ đánh cắp thuốc tiên của chồng bay lên cung trăng biến thành con cóc. Đây chỉ mặt trăng.
- tinh tinh 星 星: từng giọt, từng cái, từng sợi.


Bài 19

LƯU BIỆT NGUYỄN ĐẠI LANG               
留別阮大郎

Tây phong tiêu táp phất cao lâm,                     
西風蕭颯拂高林
Khuynh tận ly bôi thoại dạ thâm.                    
傾盡離杯話夜深
Loạn thế nam nhi tu đối kiếm,                        
亂世男兒羞對劍
Tha hương bằng hữu trọng phân khâm.          
鄉朋友重分襟
Cao sơn lưu thủy vô nhân thức,                       
高山流水無人識
Hải giác thiên nhai hà xứ tầm?                         
海角天涯何處尋
Lưu thủ giang nam nhất phiến nguyệt,             
留取江南一片月
Dạ lai thường chiếu lưỡng nhân tâm.               
夜來常照兩人心
Nguyễn Du                                                      

 
Tạm chuyển lục bát:

CHIA TAY BỊN RỊN VỚI ANH BẠN HỌ NGUYỄN


Rừng cao hiu quạnh gió tây,
Chuyện trò chén cạn chia tay đêm trường.
Kiếm gươm trai loạn thẹn thùng,
Quê người xa bạn nặng lòng xiết bao!
Không còn người hiểu “núi cao…”,
Chân trời, góc bể nơi nào tìm đây?
Bờ nam còn mảnh trăng gầy,
Đêm về soi tấm lòng này đôi ta.


Dịch nghĩa:
Gió tây buồn bã quét thổi qua rừng cây cao. Nghiêng chén uống cạn ly rượu để chuyện trò thâu đêm. Trai thời loạn lạc đứng trước thanh kiếm mà thẹn thùng ! Chia tay bè bạn nơi đất khách quê người tình cảm thắm thiết mang nặng trong lòng. “Núi cao, nước chảy” không còn người để hiểu. Nơi góc biển chân trời biết chốn nào để tìm? Chỉ giữ lại mảnh trăng ở phía nam con sông. Đêm đến, vẫn thường soi chiếu tấm lòng của hai chúng ta.

Chú thích:
- lưu biệt 留別: chia tay với sự lưu luyến bịn rịn ,muốn giữ lại....

- tiêu táp : gió thổi vi vu buồn thảm.
- ly bôi 離 杯: chén dùng uống rượu lúc chia tay nhau.
- trọng phân khâm 重 分 襟: nặng tình cảm thắm thiết khi chia tay nhau (khâm: vạt áo để gạt nước mắt. Phân khâm: chia lìa ,ly biệt ).
- cao sơn lưu thủy 高 山 流 水: Bá Nha và Chung Tử Kỳ (đời nhà Chu T.H) kết bạn tri kỷ (hiểu lòng nhau) thông qua tiếng đàn. Mỗi khi Bá Nha đàn diễn tả “nước chảy non cao”, Chung Tử Kỳ đều nghe mà hiểu cái chí của bạn (tri âm). Về sau Chung Tử Kỳ mất, Bá Nha đập đàn không chơi nữa vì cho rằng không còn ai “tri âm, tri kỷ” hiểu được lòng mình qua tiếng đàn.
- hải giác thiên nhai 海 角 天 涯: góc bể chân trời, chỉ nơi xa xôi.
- lưu thủ 留 取: giữ, cái còn lại phải giữ lấy.

Dương Anh Sơn              

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét