BÀI 14
THÍNH THỤC TĂNG TUẤN ĐÀN CẦM 聽 蜀 僧 濬 彈 琴
Thục tăng bão Lục Ỷ,
蜀僧抱綠綺,
Tây há Nga Mi
phong.
西下峨眉峰。
Vị ngã nhất huy
thủ,
為我一揮手,
Như thính vạn hác
tùng. 如聽萬壑松。
Khách tâm tẩy lưu thủy
, 客心洗流水,
Dư hưởng nhập sương
chung . 餘響入霜鐘。
Bất giác bích sơn mộ ,
不覺碧山暮,
Thu vân ám kỷ trùng
秋雲暗幾重。
Lý Bạch
李白
Dịch nghĩa: Nghe sư đất
Thục tên Tuấn gảy đàn cầm.
Vị tăng người nước Thục ôm cây đàn cầm có tên là Lục Ỷ đi từ phía tây ngọn núi
Nga Mi xuống. Ông đã vì ta một bận vẩy tay đàn. Nghe như (tiếng đàn) vang vào
muôn ngàn cây thông. Cái tâm của người khách như được dòng nước chảy rửa sạch !
Âm hưởng còn lại của tiếng chuông (chùa) như cùng hòa điệu(với tiếng đàn cầm)
đi vào trong làn sương. Chẳng ngờ chiều đã buông xuống nơi ngọn núi biếc ! Mây
mùa thu màu tối mờ đang giăng biết bao nhiêu lớp.
Tạm chuyển lục bát:
NGHE SƯ ĐẤT THỤC TÊN TUẤN
GẢY CÂY ĐÀN CẦM.
Ôm đàn Lục Ỷ, Thục tăng,
Đỉnh Nga Mi xuống ở đằng phía tây.
Vì ta tay vẩy lần này,
Nghe muôn khe dội tiếng đầy rừng thông!
Nước tuôn, lòng khách sạch trong,
Làn sương vang vọng chuông ngân lẫn vào.
Chiều buông, núi biếc ngờ đâu,
Mây thu mấy lớp giăng màu tối tăm !
Chú thích:
- đàn 彈: gảy, búng, hạch hỏi (đàn hạch). . .
- cầm 琴: cây đàn cầm có từ thời xa xưa nên gọi là cổ cầm. Theo truyền
thuyết của người Trung Hoa, đàn cầm do vua Thuấn làm ra với năm dây lúc ban đầu
(ngũ huyền cầm hay Dao cầm ) gồm : dây Cung, Thương, Dốc, Chủy, Vũ. Về sau, có
thêm hai dây nữa là dây Văn và dây Võ do tích Văn Vương khi bị cầm tù ở đất Dũ,
con là Bá Ấp Khảo đem đàn ra tỏ lòng thương nhớ cha nên Văn vương sau này cho
mắc thêm một dây gọi là dây Văn. Còn dây thứ hai hai thêm vào do tích vua Chu
Võ Vương nhà Chu (xem thêm chú thích bài 9 bên trên -Thủ Dương) khi khởi binh
đi diệt vua Trụ nhà Thương tàn bạo cho mắc thêm dây thứ bảy vào cổ cầm để kích
thích tinh thần chiến đấu cho binh sĩ nên người đời gọi là dây Võ. Kinh Thư của
Trung Hoa (có từ thời nhà Chu 周朝 1122-249 TCN ) có đề cập đến cây đàn cầm:
"- Yểu điệu thục nữ /Cầm sắt hữu chi. . . 窈 窕 淑 女,琴 瑟 友 之." (Kinh Thi, Bài
1, chương III) cũng cho thấy lai lịch có từ thời rất xưa của cổ cầm cùng với
cây đàn sắt. Cây đàn tranh hay đàn thập lục và các loại đàn có sự cải đổi khác
chỉ xuất hiện mãi về sau.
- Lục Ỷ 綠綺: hoa văn màu xanh vẽ trên đàn hay trên áo.
Đây chỉ cây đàn cầm nổi tiếng tương truyền của Tư Mã Tương Như có tên là Lục Ỷ.
- Nga Mi 峨眉: nằm ở phía tây nam huyện Nga Mi, Tứ Xuyên,
Trung Hoa là một trong những ngọn núi danh tiếng ở nước này.
- huy 揮: vẩy, phất tay, lay động, múa áo, làm rõ, tan ra…
- hác 壑: hang hốc, khe suối, hào nước, trống không...
- tẩy 洗: rửa sạch, tẩy rửa, làm cho trong sạch…
- tâm 心: cõi lòng, lòng dạ, tâm hồn bên trong. Tâm hiểu một cách sâu xa
hơn là căn tính, bản tính, là gốc rễ phát sinh ra mọi nhận thức và hành động
của con người. Một cách đơn giản hơn tâm có thể hiểu như là lĩnh vực tinh thần
sâu xa trong con người có khả năng điều khiển những hoạt động của con người...
Với đạo Phật, tựu trung có thể thu gọn trong hai khái niệm là vọng tâm và chân
tâm : quá trình đi đến chân tâm là con đường "minh tâm kiến tánh",
làm sáng rõ cái tâm để thấy được, ngộ được cái tánh hay là cái tâm đích thực. Nhưng
với Thiền của đạo Phật "Tâm vô tâm" mới thực sự là chân tâm. Quẻ Phục
của Kinh Dịch của người Trung Hoa có viết: "Phục kỳ kiến thiên địa chi tâm
hồ" nghĩa là phải quay trở về mới thấy cái tâm, cái trung tâm của trời
đất! Vậy thì phải quay về nơi đâu để thấy cái tâm?! Có lẽ Lý Bạch khi nghe bản
đàn cầm của vị sư người đất Thục rất thanh tao và thoát tục như giúp gột rửa
những vọng tâm hư ảo, tục lụy trong cõi lòng của mình.
- lưu thủy 流水: nước trôi chảy. Còn có nghĩa là tên khúc đàn
"Cao sơn lưu thủy". Sách Lã Thị Xuân Thu có chép câu chuyện về tình
bạn tri âm, tri kỷ của Bá Nha và Chung Tử Kỳ : khi Bá Nha đàn, Chung Tử Kỳ hiểu
thấu tâm ý của Bá Nha như núi cao, như nước chảy…v.v… Nhà thơ Nguyễn Du trong
Đoạn Trường Tân Thanh cũng đề cập đến khúc "lưu thủy" và khúc
"hành vân" trong bài Quảng Lăng Tán 廣陵散 của danh cầm Kê Khang
嵇康(233-252, người đời Tấn bên Trung Hoa): "Kê Khang này khúc
Quảng Lăng/ Một là lưu thủy hai rằng hành vân. . . " (câu 477, 478).
- ám 暗: tối tăm, không hiểu rõ, u ám
- kỷ trùng 幾重: bao nhiêu lớp chồng chất lên nhau.
BÀI 15:
CỔ Ý
古 意
Quân vi nữ la thảo,
1 君為女蘿草,
Thiếp tác thố ti
hoa.
妾作菟絲花。
Khinh điều bất tự
hành, 輕條不自行,
Vị trục xuân phong
tà. 4 為逐春風斜。
Bách trượng thác viễn
tùng, 百丈託遠松,
Triền miên thành nhất
gia. 纏綿成一家。
Thùy ngôn hội diện
dị? 誰言會面易,
Các tại thanh sơn
nha (nhai) 8 各在青山崖。
Nữ la phát hinh hương,
女蘿發馨香,
Thố ti đoạn nhân
trường. 菟絲斷人腸。
Chi chi tương củ
kết, 枝枝相糾結,
Diệp diệp cánh
phiêu dương 12 葉葉竟飄揚。
Sinh tử bất tri
căn
生子不知根,
Nhân thùy cộng phân
phương 因誰共芬芳。
Trung sào song phỉ
thúy, 中巢雙翡翠,
Thượng túc tử uyên
ương. 16 上宿紫鴛鴦。
Nhược thức nhị thảo
tâm,
若識二草心,
Hải triều diệc khả
lượng. 18 海潮易可量。
Lý Bạch
李白
Dịch nghĩa:
Ý xưa.
Chàng là loài cỏ nữ
la, còn thiếp là loài hoa thố ti. Cành vừa dài, vừa mỏng lại nhẹ nên không thể
đi được. Vì gió xuân đưa đẩy nên bị nghiêng ngả. Gửi (cuộc sống) nhờ vào cây
tùng ở trăm trượng phía xa, vấn vương quấn quít thành một nhà. Ai nói gặp nhau
là dễ dàng đâu!? Mỗi đàng đều ở mỗi nơi trên vách cao của dãy núi xanh!
Cỏ nữ la tỏa ra hương thơm nồng nàn ; hoa thố ti làm cho người phải đau đớn
quặn lòng. Cành liền cành đan nối cùng nhau, lá chen lá để cuối cùng gió cuốn
bốc lên cao. Sinh con mà nguồn cội chẳng hay biết gì, cùng nhau tỏa ngát hương
thơm này cho ai đây! Trong tổ chim có hai con chim phỉ thúy, còn chỗ ở phía
trên có cặp chim uyên ương màu tím. Nếu hai loài cỏ nhận biết được tấm lòng
(của nhau) thì những con sóng biển cũng có thể đo lường được đây!
Tạm chuyển lục bát :
Ý XƯA.
Chàng là loài cỏ nữ la,
Làm loài hoa nở, thiếp là thố ti !
Cành mềm chẳng thể tự đi,
Đẩy đưa theo gió xuân thì nghiêng thôi!
Nhờ tùng trăm trượng xa xôi.
Vấn vương quấn quít một nơi thành nhà!
Gặp nhau ai nói dễ là,
Non xanh triền núi phân ra mỗi đàng.
Nữ la hương ngát tỏa lan,
Thố ti cũng mãi làm lòng quặn đau!
Cành cành đan nối cùng nhau,
Rốt cùng lá lá gió nhào tung bay.
Sinh con gốc gác chẳng hay,
Cùng nhau hương ngát thơm bày cho ai !
Tổ chim phỉ thúy có hai,
Phía trên sắc tía tổ vầy uyên ương.
Nếu hai cỏ hiểu tấm lòng,
Biển khơi sóng dậy đo lường được thôi !
Chú thích:
- nữ la thảo, thố ti hoa 女蘿草, 菟絲花: là hai loài cây cỏ tương tự như dương xỉ,
thường sống nhờ trên các cây khác trong rừng.
- khinh điều 輕條: cành lá nhỏ rất mỏng và nhẹ.
- vị 為: âm của vi có nghĩa là: vì, để cho, giúp đỡ.
- trục 逐: đưa đẩy, đuổi theo, đuổi đi, tranh giành, lần lượt…
- thác 託: cậy nhờ, gửi nhờ, mượn lời, mượn cớ, cần đến...
- triền miên 纏綿: vướng víu, vương vấn, quấn quít.
- các 各: đều, phân ra, phân biệt….
- nha 崖: bờ cao, triền dốc, vách núi cao.
- hinh hương 馨香: mùi thơm tỏa ngào ngạt, ngát nồng, thơm lừng…
- củ kết 糾結: kết dây lại với nhau, thu thập rồi nối lại
nhau, kết hợp, nối liền nhau…
- cánh 竟: rốt cùng, xong, cuối cùng.
- phiêu dương 飄揚: gió lay động, gió cuốn, gió bốc lên cao.
- phân phương 芬芳: thơm nức, thơm ngào ngạt, thơm lan tỏa nơi
nơi.
- phỉ thúy 翡翠: loài chim có bộ lông màu xanh biếc rất đẹp
như chim trả.
- uyên ương 鴛鴦: loài chim luôn luôn sống chung có đôi với
nhau. Con trống gọi là uyên, chim mái gọi là ương. Thường được ví cho những
cuộc tình đôi lứa chung thủy, hạnh phúc.
- thức 識: nhận biết, dùng trí não để suy xét, hiểu rõ, vừa mới.
BÀI 16:
HÁ GIANG LĂNG
下 江 陵
Triêu từ Bạch Đế thái vân gian, 朝辭白帝彩雲間,
Thiên lý Giang Lăng
nhất nhật hoàn. 千里江陵一日還。
Lưỡng ngạn viên thanh
đề bất trụ, 兩岸猿聲啼不住,
Khinh chu dĩ quá vạn
trùng san. 輕舟已過萬重山 。
Lý Bạch
李白
Dịch nghĩa:
Xuống Giang Lăng.
Sáng sớm chia tay rời thành Bạch Đế giữa những đám mây màu sắc rực rỡ. Giang
Lăng cách cả ngàn dặm đi một ngày là đến rồi. Hai bên bờ tiếng vượn hú không
dứt. Chiếc thuyền con nhẹ lướt qua muôn ngàn núi non chập chùng.
Tạm chuyển lục bát:
XUỐNG GIANG LĂNG.
Sáng rời Bạch Đế mây
giăng,
Một ngày về đến Giang Lăng dặm ngàn.
Hai bờ vượn mãi hú vang,
Thuyền con nhẹ vượt muôn vàn núi non !
Chú thích:
- Giang Lăng 江陵: nằm cách thành Bạch Đế khoảng hai ngàn dặm.
Nay là huyện Giang Lăng, Hồ Nam, Trung Hoa.
- Bạch Đế 帝白: thành cũ nay ở huyện Phụng Tiết, Tứ Xuyên,
T. H.
- thái 彩: màu sắc rực rỡ, văn chương bóng bẩy.
- trụ 住: thôi, dừng lại, ở, nghỉ lại. . .
- khinh chu 輕舟: thuyền nhỏ và nhẹ.
Dương Anh Sơn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét