Thứ Sáu, 29 tháng 4, 2022

Nỗi Buồn Không Tên

 



Cuộc Đời Và Tháng Tư Đen

 

 

   CUỘC ĐỜI và THÁNG TƯ ĐEN!…

   Kim Thanh 

 

   Tháng tư một thời lưu vong vẫn nhớ

   Để nhìn ta trăm mối thuở vạn sầu

   Rồi chiều buồn đem bóng tịch dương trao

   Con đường ngõ vắng ngả mầu rơi xuống.

 

   Khơi nguồn phước hạnh vu vơ tỉnh mộng

   Khao khát ngàn lần tiếc ngóng tự do

   Quê hương tin yêu mất còn thẩn thờ

   Sao dời vật đổi hồn thơ khắc khoải.

 

   Có những buổi mưa trầm mình ái ngại

   Còn lời gì nước non mãi tan hoang

   Ta rong ruổi bên hàng cây mục ngã

   Bao năm dù nghiêng ngả cõi trần gian.

 

   Nơi đâu là ánh sáng của bình an

   Cho nhân loại đăm chiêu mù ngàn lối

   Đừng để vật chất đẩy đưa tội lỗi

   Lôi cuốn nào dây dưa với lương tri.

 

   Giờ dĩ vãng thân tàn vì rã rượi

   Và hoàng hôn bỏ lỡ cuối chân trời

   Mong ước gì sưởi ấm trái tim côi

   Cho thỏa ước trên đỉnh đời cao vọng.

 

   Cuối cùng đặng yêu mớ trong hình bóng

   Chợt như tiềm thức lạc lõng yên vui

   Nỗi khát khao vòng tay của con người

   Tình quê khắc khoải chơi vơi da diết…

 

   Kim Thanh. 04- 29- 2022.

           

 

Tiếng Hò Yêu Nước

Video Nhạc - TIẾNG HÒ YÊU NƯỚC 

Sáng tác: Y Vân
Trình bày: Bộ Tam Cúc 
Thu âm: Trần Ngọc Nguyên
Đệm đàn: Trần Ngọc Minh 
Video: Aquarius Studio
Thực hiện: Hoàng Khai Nhan

Trân trọng 
NHHN 

Xin mời quý vị thưởng thưc



Ban Nhạc Hoàng Gia Hawaii Hòa Tấu "Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ"

BAN NHẠC HOÀNG GIA HAWAII HÒA TẤU "VIỆT NAM QUÊ HƯƠNG NGẠO NGHỄ"
Non Nước 

Ban Nhạc Hoàng Gia Hawaii Hòa Tấu "Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ" của nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang cho Cộng Đồng VNCH trong diễn hành ngày 29-03-2022, vinh danh và tri ân "Cựu Chiến Binh Hòa Kỳ Tham Dự Trong Cuộc Chiến Việt Nam"

Trân trọng
NHHN


Xin mời quý vị thưởng thức 



Những Trăn Trở Của Khoa Học Gia Dương Nguyệt Ánh Đến Với Thế Hệ Trẻ VN

NHỮNG TRĂN TRỞ CỦA KHOA HỌC GIA DƯƠNG NGUYỆT ÁNH ĐẾN VỚI THẾ HỆ TRẺ VN
Sean Le TV - Tiếng Nói Tự Do

This video is an interview with American Scientist Duong Nguyet Anh, offering her views on world's event and her hope for the young Vietnamese generation.

Trân trọng
NHHN

Xin mời quý vị theo dõi video



Nước Mỹ Trong Tôi

 


NƯỚC MỸ TRONG TÔI
Khuyết danh

Theo bản thống kê dân số của nước Mỹ năm 2010, hiện nay có 1,737,433 người Việt đang sinh sống trên nước Mỹ. Chúng ta những ai hiện nay đang sống, học hành, làm việc hay dưỡng già ở đây, đều đã trải qua một phần đời mình trên mảnh đất này, thường gọi là “tạm dung” nhưng thực tế là vĩnh viễn.

Từ biến cố 30 tháng 4 năm 1975, những đứa trẻ sinh ra lớn lên ở đây, ngoài huyết thống ra, chúng không khác gì những đứa trẻ Mỹ. Những người trung niên còn mang theo cả một thời thơ ấu và những kỷ niệm không quên từ nơi chôn nhau cắt rốn, nhưng vẫn lăn lộn với cuộc đời trên đất khách này để mưu sinh, có người thời gian sống với quê hương ngắn ngủi hơn là ở nơi quê người.

Tiểu bang California, nơi có nhiều người Việt sinh sống nhất đã rộng lớn bằng diện tích cả nước Việt Nam, nên cũng chưa có ai trong chúng ta tự hào đã đặt chân đến hết 50 tiểu bang của nước Mỹ, cũng như không ai dám nghĩ rằng mình hiểu hết những gì về nước Mỹ, dù đây chỉ là một nơi mới lập quốc hơn 300 (236 ?) năm. Có người cho Mỹ là anh chàng trẻ tuổi, xốc nổi, dại khờ, nhưng cũng có người công nhận nước Mỹ là ông cụ thâm trầm thường triển khai những bước đi tính toán trước cả trăm năm.

Ðối với những người già đã đến nơi này muộn màng, nhưng cả cuộc đời còn lại coi như sống chết với nước Mỹ, thường gọi là quê hương thứ hai, mà không bao giờ còn cơ hội trở về nằm trong lòng đất quê mẹ, nếu sự thực khốn nạn, chế độ Cộng Sản còn tồn tại trên quê hương vài ba mươi năm nữa.

Một người Việt về thăm lại quê hương, nơi họ đã từ bỏ tất cả để ra đi, lúc đặt chân trở lại nước Mỹ, cho rằng tâm hồn lại cảm thấy an toàn, nhẹ nhàng hơn như lúc về nhà.

Một người Việt xa quê hương đã lâu trở về Sài Gòn, có dịp vào Tòa Tổng Lãnh Sự Mỹ, ông thú nhận khi nhìn những hình ảnh tổng thống hay ngoại trưởng của Hoa Kỳ, ông lại có cảm giác quen thuộc, an toàn hơn là những lúc lang thang ở Hà Nội nhìn hình lãnh tụ và quốc kỳ Cộng Sản. Ðó không phải là vong bản, mất gốc mà chế độ này đã nhân danh đất nước, tạo hận thù, kỳ thị, xô đẩy biết bao nhiêu người xuống biển, bỏ quê hương ra đi.

Gần như chúng ta không còn lệ thuộc gì với đời sống nơi quê nhà, ngoài những tình cảm sâu đậm trong máu huyết, làm cho chúng ta gần gũi với ngôn ngữ, đời sống Việt Nam, mà chúng ta có cảm tưởng đang dần dần tách rời, cho đến một lúc nào đó trở thành xa lạ. Phải chăng vì vậy, mà đã có những đứa con ngày trước trở về, xót xa nhận ra rằng, họ đang đi, đứng trên một đất nước xa lạ, không còn là của họ nữa.

Quê hương ngày nay chỉ còn là nơi thăm viếng mà không phải là nơi để trở về. Nước Mỹ đã là nơi quen thuộc chúng ta đang sống, có gia đình, nhà cửa, công việc, bà con, bạn bè, thì làm sao chúng ta lại không có những suy nghĩ, có những câu chuyện buồn vui, hay những trăn trở về nước Mỹ. Cách đây 38 năm, chưa lúc nào, chúng ta, những người dân ở một đất nước xa xôi bên vùng trời Ðông Nam Á, cách biệt nơi này đến nửa vòng trái đất, lại có ý nghĩ rằng, một ngày kia chúng ta sẽ đến đây, sống lâu dài nơi đây, sinh con đẻ cháu nơi này, để tạo ra một nhánh người Việt lưu vong. Ðời sau, còn giữ được ngôn ngữ, phong tục hay không, lại là một điều mà nhiều người khác đang trăn trở, lo âu làm sao để duy trì, gìn giữ!

Trong cái cộng đồng gần gũi, thân mật gắn bó này, với sách vở, báo chí, truyền thông, quán xá, chợ búa, tiệm buôn, món ăn thức uống, cả cái tên vùng đất hay bảng hiệu Saigon chúng ta mang theo, đôi khi gần như quên hẳn là chúng ta đang sống trên đất Mỹ. Cả cái bữa cơm, cá mắm, canh rau, đôi đũa, chén nước mắm ớt, có khác gì ở Việt Nam. Cả cái bàn thờ nhang khói, hình ảnh tổ tiên, ông bà, cành mai, chậu lan, những cô thiếu nữ, trẻ em mặc quốc phục lên chùa ngày Tết, hồi trống, tiếng pháo Mùa Xuân làm chúng ta quên mất là chúng ta đang sống thật xa quê nhà.

Ðiều tôi muốn nói ở đây là chúng ta thường quên chúng ta đang sống trên đất Mỹ.

Ông Khổng Tử của nước Trung Hoa có ví von: “Ở chung với người thiện như vào nhà có cỏ chi lan, lâu mà mà chẳng thấy mùi thơm, tức là mình cũng đã hóa ra thơm vậy.” Một kẻ vào vườn hoa lan đầy hương thơm, lúc đầu còn nhận ra mùi hương nhưng dần dà trở thành quen thuộc, trở thành bình thường, không còn thấy hương thơm, như kẻ tiểu nhân sống với người quân tử dần dần được cảm hóa lúc nào mà không hay biết.

Nước Mỹ có nhiều hương thơm như thế mà cảm giác chúng ta bị dung hòa lúc nào không hay đến nỗi không còn cảm nhận được mùi thơm nữa. Hương thơm đó là những điều tốt lành, thấm nhập vào con người chúng ta lúc nào chúng ta cũng không biết, không hề quan tâm hay nhận ra được sự khác biệt trước và sau.

Chúng ta học hỏi được ở nước Mỹ tính bảo vệ đời sống riêng tư, tôn trọng luật pháp, sống an hòa, sự tử tế và mối tương quan giữa con người và con người trong xã hội. Ðiều này không chỉ có ông Bá Dương (1920-2008), sau khi đi New York, Las Vegas hay San Francisco về, đã tường thuật lại trong cuốn “Người Trung Quốc Xấu Xí,” mà bất cứ người Việt Nam nào khi đi du lịch nước Mỹ về cũng nhận ra. Có người thắc mắc sao lái xe trên đường vắng vào một hai giờ sáng, gặp bảng “stop” cũng phải đừng lại, sao một đứa bé phải đi tìm cái thùng rác để vứt cái giấy kẹo nhỏ chỉ bằng hai ngón tay, sao ở đây xe hơi nhiều như thế mà không nghe một tiếng còi? Trong cái không khí dễ chịu, thanh thản, an lạc người ta cảm nhận ra khi bước chân trở lại một nơi, có một chút mỉa mai, không phải là quê nhà của mình.

Chúng ta bước đi từ môi trường tử tế, trong lành của miền Nam qua giai đoạn “thống nhất” để bước đến một xã hội hỗn loạn như hôm nay, khi mà con người tốt đẹp dần dà trở thành vô cảm, lừa lọc, gian trá, đạp lên nhau mà sống, để mưu tìm một đời sống ích kỷ cho riêng mình, mà không thấy đó là bất thường, bất nhân và vô loại. Thì chúng ta, trong xã hội này, cũng theo lời ông Khổng Tử: “ Ở chung với người bất lương, như vào trong chợ cá ươn, lâu mà chẳng biết mùi hôi, vì mình cũng hóa ra hôi vậy!” Như người mới vào chợ cá, lúc đầu còn nghe mùi hôi tanh, dần dà quen thuộc, không còn nghe mùi tanh tưởi khó chịu nữa, như người quân tử sống với kẻ tiểu nhân, dần dần đồng hóa bởi cái xấu mà mình không hay biết. Thử hỏi một viên chức trong chế độ Cộng Sản Việt Nam hiện nay, xem những chuyện cường quyền áp bức, mạng sống của người dân xuống hàng súc vật, con người chỉ biết có đồng tiền và dục vọng, tráo trở, vô đạo lý hiện nay có là điều gì làm cho con người lạ lùng, khó chịu không? Hay đó là chuyện bình thường, thấy đã quen mắt, nghe đã quen tai, đầu óc đã xơ cứng, chai đá như khứu giác của con người ở lâu trong chợ cá, còn đâu phân biệt được mùi hôi nữa!

(*) Ðiều cuối cùng chúng tôi muốn nói là sự may mắn đã giúp ta có cơ hội không phải chỉ cho riêng mình mà cả con cháu đời sau, tránh khỏi được kiếp oan nghiệt, ra khỏi được cái chợ cá ấy, được sống trong cái “chi lan, chi thất” cái vườn lan thơm ngát, mà qua một thời gian chúng ta không còn cảm nhận được mùi thơm nữa, nhưng trên thực tế, mùi thơm đó vẫn hiện hữu.

Nhiều kẻ hãnh tiến vẫn cho rằng nước Mỹ nợ chúng ta mà quên rằng, món nợ của chúng ta, và cả con cháu đời sau đối với nước Mỹ thật khó lòng trả nổi.

Hãy CÁM ƠN bằng cách sống thật có ý nghĩa cho đời sống này!

Khuyết danh 


Cái Nón Cối

 


CÁI NÓN CỐI 
BS Lê Nhàn

Nhìn thấy đội cái mũ cối, lại giọng của đồng hương nữa nên mình không thích lắm, vì vậy vẫn hí hoáy đặt xe. Màn hình báo “Hiện tại tất cả các tài xế đều đang bận, bạn vui lòng quay lại sau”, ngán đợi nên hỏi cái “đồng chí” này, thấy giá cả cũng ok, nên gật đầu đồng ý đi.

Mặc dù cũng chẳng yên tâm tí nào khi sử dụng dịch vụ của người nói cùng giọng với mình, chỉ sợ bị chém.

Lên xe mình hỏi luôn: Tôi hơi thắc mắc tí, anh cho tôi hỏi một câu nếu anh thấy không phiền, OK?

- Chị hỏi đi.

- Tại sao anh lại thích đội cái mũ đó?

- Không phải em thích mà nắng thì em đội thôi.

- Anh vào đây lâu chưa?

- Em vào được 7 tháng chị ạ.

- Vậy hả, vậy thì mới quá nên chưa hiểu là phải. Đúng ra tôi không nói nhưng vì tình đồng hương nên tôi nói điều này anh đừng giận nhé.

- Chị cứ nói đi.

- Lúc nãy anh biết tại sao tôi không muốn đi xe anh không?

- Em không biết.

- Tại vì anh đội cái mũ đó đó, và tôi cũng nói luôn là người dân ở đây họ không thích cái mũ đó đâu, nếu anh muốn chiếm cảm tình của người khác thì anh đừng có đội cái đó, anh đội cái gì cũng được, mặt anh rỗ thế nào cũng được, anh xăm mình vằn vện thế nào cũng được nhưng anh không nên đội cái mũ đó.

Để tôi giải thích cho anh nhé, trước năm 75, Việt Nam mình chia 2 miền anh có biết không?

- Em biết.

- Đó, đó là lý do. Cái mũ ấy là nỗi kinh hoàng của người dân Miền Nam, là sự căm hận của người dân Miền Nam mỗi khi họ nhìn vào. Vì cái mũ đó họ đã BỊ giải phóng từ một cuộc sống giàu sang, tự do xuống tột cùng của sự đau khổ, vì cái giải phóng đó mà họ không chịu nổi cái việc bị đuổi ra khỏi nhà để đi vùng kinh tế mới, nơi rừng thiêng nước độc, sốt rét quật ngã họ… Nên họ phải liều chết để lao ra biển vượt biên, nhiều gia đình đã chết hết trên biển làm mồi cho cá mập.




Và ngay cả tôi, tôi là người Bắc nhưng tôi cũng không thích cái mũ đó, cái biểu tượng của sự khổ đau và kìm kẹp, mặc dù chú tôi và những người hàng xóm của tôi cũng vẫn đội để che nắng nhưng thực sự tôi không thích nó, vì cái mũ đó mà đất nước tan hoang như ngày hôm nay, tham nhũng tràn lan, kinh tế tuột dốc, đời sống văn hóa tệ hại, trò đánh thầy, thầy tra tấn trò, BS thờ ơ với bệnh nhân, con người tìm cách lừa lọc lẫn nhau, tình người không còn.

Một lý do nữa để tôi nói nốt, lúc nãy tôi không thích đi xe anh là bởi vì tôi sợ bị anh chém, tôi cảm thấy yên tâm hơn khi ngồi sau tài xế không nói cùng giọng với mình, mặc dù nói ra điều này tôi đau lắm, họ đi xa khi gặp đồng hương họ vui sướng, họ mừng, nhưng mình gặp đồng hương lại trỗi lên nỗi sợ.


Anh tài xế lúc này mới bắt đầu:

- Chị nói đúng, người dân ở đây họ hiền và họ thật lắm, mình không thể mang cái lưu manh vào mà sống được, mình lưu manh thì mình tự giết chính mình.

Còn ở ngoài nhà không lưu manh không sống được, đặc biệt là khi chị đi làm giấy tờ, nhất là giấy tờ nhà đất, đụng đến là nó hành cho đủ kiểu.

Đến đây thì khách sạn đã hiện ra trước mắt nên mình xuống xe Hy vọng anh này sẽ, sẽ và sẽ… không mang cái tính xấu vào đây.

BS Lê Nhàn - Báo Mai


Vào Chợ Đời

 

Hình gia đình tác giả

VÀO CHỢ ĐỜI 
Đặng Châu Long 

Vợ chồng tôi và đứa con gái đầu lòng về lại Nhatrang vào những ngày gần cuối tháng năm 1975 như một sự không tự nguyện sau nửa tháng tập làm người nông dân tại Long Thành. Bỏ lại sau lưng mảnh đất ruộng khoảng ba sào của chị Xuân, con dì hai, cho để tạm cư sau cơn biến loạn cùng căn nhà lá dừa nước do Được, người em rể, và tôi tự dựng như một gia tài đầu tiên chúng tôi có được.

Chị Hà từ Nha Trang đã theo xe ba lua (poids lourd) vào Sài Gòn để đưa tất cả về lại nhà cha mẹ ở 21 Gia Long. Dường như trong giai đoạn này chỉ còn các xe tải là phương tiện liên tỉnh thay thế xe đò đã bị đình chỉ. Chen chúc co ro cùng những người khách khác, ngồi lên hành trang của mình thay ghế. Mà hành trang chúng tôi còn có chi nhiều, chỉ một túi xách nhỏ chủ yếu là quần áo bé Trân, vừa dành dụm mua lại sau khi tất cả mọi thứ khác đã mất đi tại căn cứ Tổng kho Long Bình. Ngày về phép 48 giờ trước khi đáo nhậm đơn vị mới Long An đã trở thành ngày phép vô hạn định. Thế sự đã xóa nhòa một người lính bại trận ra khỏi cuộc đời như thế đó. Tôi chỉ còn một nỗi âu lo cho một tương lai xám cho tôi, cho gia đình tôi và cả đứa con tôi vừa chập chững những bước đầu tiên chạm chân vào đời. Một trạng thái của hành khách trên máy bay đang rơi tự do theo khoảng không gian dài vô cùng tận để chờ kết quả được biết trước: tan xác hoặc chìm trôi.

Trên xe, ngồi ôm bé Trân đang ngủ thiếp trong lòng, tôi nhìn ra khoảng không gian sót lại trong chiếc xe nhờ nhợ tối. Ánh sáng còn sót lại sau chiếc bửng xe như một khoảng quá khứ đang lùi lại, lùi lại để nhòa nhạt dần cuối chân trời. Phía trước là khoảng mù mịt hư huyền. Những tiếng rầm rì trên xe không đủ làm rung động không gian nhỏ bé. Nghe như những lời cầu kinh, kinh đời thường của những kẻ đang hoang mang trên đường tìm về nhà như tôi, Dường như không ai nhìn ai bởi họ đang cố nhìn sâu trong họ để trả lời một câu hỏi quá lớn cho một khoảng đời dài.

@

Xe bỏ chúng tôi xuống Mã Vòng. Chúng tôi còn chỉ một vài trăm thước là tới nhà. Ngôi biệt thự cũ kỷ thân thương gần ga Nha Trang đã dung chứa bao kỷ niệm của tôi với gia đình, với bạn bè nay bỗng trở thành lạ lẫm với tôi. Chúng tôi đã là kẻ ngụ cư trong nhà mình. Căn biệt thự đóng im ỉm. Cả gia đình chen chúc trong một garage mười sáu thước vuông đối diện cửa chính. Bây giờ chúng tôi là những kẻ tạm dung, như ba tôi sau nửa năm nghỉ hưu bỗng nhiên được tạm dung làm Chánh văn phòng Khu Đường sắt vì thiếu chuyên viên. Những người thừa cần thiết với đồng lương 3000 đồng và 20 ký gạo. Tôi, lương độc thân đã là 27 000 đồng và ba tôi lương hưu đã là 32 000 đồng. Tiếc thay ba chưa cầm được lương hưu lần nào.

Má tôi vẫn loay hoay nấu nước bên bếp kê tạm trong nhà kho nhỏ đổ nát cạnh garage. Má vẫn có thói quen thu lượm những tàu lá dừa, vỏ dừa từ chín cây dừa trong sân để làm nguyên liệu đun nấu từ lâu nay. Nghe tiếng chúng tôi về, má bỏ công việc chạy ra ôm chầm đứa cháu nội gái hai dòng nước mắt rưng rưng. Tôi mỉm cười không nói. Mà biết nói gì đây khi dòng khổ đã khô sau chuyến di tản kinh hoàng mới tháng trước đây. Tôi vẫn mong má sống an. Má cứ ca hát, cứ nói thứ tiếng vu vơ của má chế ra không ai hiểu, cứ thương nhớ hai anh, nhưng mong má bình tâm đừng hiểu thêm những sự thật bây giờ. Má vẫn còn lạ lẫm không biết những người thắng cuộc là ai. Vậy cũng tốt để khi má nhớ về hai anh Điệp, Sơn không buông lời thất thố.

Ba tôi bây giờ lặng lẽ, vẫn hàng ngày đạp chiếc Ambassador đi đến 2 Yersin, nơi năm tháng không xa ba đã từng là chủ nhân nơi này, nhưng dường như trong ba mang nặng nỗi ngậm ngùi khi thu mình sống trong không gian lạ lẫm cách sinh hoạt nơi làm việc bây giờ.

Chị Hà vẫn là người quán xuyến hết sinh hoạt gia đình. Chị hướng dẫn cho Hạnh cách kiếm sống qua ngày bằng nghề buôn bán chợ trời. Mua đủ thứ, bán đủ thứ lấy chênh lệch mà tồn tại. Đừng nghĩ đến tương lai.

Tôi bây giờ tạm theo đuôi mọi người, bởi buôn bán không phải thiên bẩm của tôi

@

Người ta nói buôn có bạn, bán có phường, quả là đúng vậy. “trung tâm chợ trời” ở Nha Trang năm 1975 quần tụ trước ngõ ra vào chợ Đầm, dọc các con đường Phan Bội Châu, Nguyễn Du và Hai Bà Trưng. Dọc đường Nguyễn Du bài bản nhất, nơi tập trung hà sa những TV, máy Akai, đồ cổ. Nơi đó người mua thường là những người từ phương xa chuẩn bị về phương Bắc cố hương, bởi đó là dịp tìm được những món hàng mà họ đỏ mắt cũng không thể có được nơi quê nhà. Dân miền Nam thì còn thiết gì những phù phiếm đó trong buổi chộn rộn tương lai mịt mù.

“Gian hàng” của chị em tôi chỉ là một tấm nhựa, trên đó là những món hàng mua lại được từ những người mang đến từ nhà để đắp đổi qua ngày. Chỉ là những hàng hóa bình thường, chén dĩa tô kiểu của Nhật chiếm đa số. Những món hàng không cần nhiều vốn và dễ tiêu thụ. Dân miền Nam đâu xài mủng dừa, mấy món hàng này đã là bình thường xưa nay. Nhưng chắc rồi sẽ đến lúc phải dùng chén đất, khi việc làm không còn giữa một cõi tàn hoang.

Tôi chỉ có nhiệm vụ thồ hàng đi về, lang thang làm người nhìn ngắm thế sự. Có lần thấy một người mang cả chục cuốc xếp Mỹ, còn mới nguyên, mang bán chẳng ai mua. Tôi thấy nó như thấy lại một thời đã từng nhờ nó để đào công sự cá nhân mà bỏ đi không đành. Tôi dạn miệng trả giá mua. Có lẽ người bán cũng mệt mỏi chào hàng nên bán giá như cho. Mang đưa chị Hà và Hạnh bị phê phán ngay. “thời buổi này thu mấy món này làm sao bán. Phải như cuốc con gà còn bán dân đi rẩy. Mấy món này chỉ để con nít chơi. Mà con nít cũng không thèm chơi”. May sao, cuối cùng có người mua, chắc là dân hoài niệm như tôi. Cũng có lời chút chút đỡ áy náy. Từ đó tôi làm thinh đi xuống đi lên. Trừ một lần nữa.

Hôm ấy chỉ có Hạnh ngồi bán. Một người đàn bà dáng lam lũ ôm chiếc bọc đến trao đổi. Chị ngồi xuống, trưng hàng ra. Hai chân đèn, hai con voi nhỏ, hai con hạc, một bộ lư một đèn dầu. Tất cả đều bằng đồng. Chỉ trừ một thứ: đôi liễn thờ bằng vải trắng viết chữ nho được cuộn lại cẩn thận. Hạnh không dám mua. Tôi nhìn cặp voi liên tưởng đến Hai Bà Trưng, liên tưởng đến con voi sa lầy tại sông Hóa, liên tưởng đến Bùi Thị Xuân. Nhìn nét tiều tụy của người đàn bà, tôi hiểu đây là lần vét cuối của nhà để ngậm ngùi thương. Tôi lại xúi Hạnh mua, tôi nói cặp voi đẹp quá, chắc có người mua. Hạnh ngần ngừ, nhưng tâm khảm Hạnh chắc như tôi, trả giá, cuối cùng đồng ý mua. Người đàn bà đi rồi, vợ chồng tôi còn dõi theo đến khi mất hút. Dáng liêu xiêu của chị như dáng đời tôi. Khi cúi xuống nhìn lại chợt nhớ ra bộ liễn vải chữ nho. Với gia đình chị là cần nhưng với chúng tôi thì bán cho ai. Và liễn này dành cho người nằm xuống tên gì?. Hạnh phân vân, tôi cũng phân vân, cuối cùng đành mang về hỏa táng.

Ngày 22 tháng 7, tôi và Được tập trung vào Tổng trại 6 Lam Sơn, tạm chấm dứt một thời buôn bán chợ trời. Và bắt đầu một thời không thể nghĩ bàn. Thời thế.

ĐẶNG CHÂU LONG
 

Cuối Cùng Cho Tuổi Thanh Xuân

 

Tác giả Đặng Châu Long

CUỐI CÙNG CHO TUỔI THANH XUÂN 
Đặng Châu Long 

Vẫn như thông lệ, khi có dịp về Sài gòn, tôi đều chọn nhà dì dượng tám làm chỗ dừng chân. Nhà dì dượng ở 315/22c Trương Minh Giảng. Đó là con đường hẻm tương đối rộng, đối diện cây xăng Trần Quang Diệu-Trương Minh Giảng. Căn nhà gác gỗ, sàn gỗ, được làm trên kinh Nhiêu Lộc đủ thoải mái dung chứa gia đình nhỏ của tôi và vợ chồng dì dượng. Đứa con gái Tuyết Nga của dì đã theo chồng và hiện ở Phú Quốc. Các em tôi, khi vào Sài gòn học cũng vẫn hay ở nhà này. Em trai tôi, Đặng Phước Đạt đã mô tả lại chốn này trong dòng “Ký ức của tôi” kể lại thời em đi học tại trường Trang Trí Mỹ Thuật Gia Định như sau:

“Nhà dì tám gần chợ Trương Minh Giảng, trong một con hẻm, phía sau là dòng kinh Nhiêu Lộc sánh đặc bùn đen, rác rưởi, phân người, phối nên một hòa sắc tăm tối của sự nghèo khổ, Tất cả cộng lại thành mùi rất đặc trưng, không dễ gì quên được: Mùi của xóm nhà ổ chuột, chen chúc trên dòng kinh đen ảm đạm giữa Sài Thành hoa lệ một thời được xem như Hòn ngọc Viễn đông. Cảnh quan ấy, nghịch lý thay, lại trở thành một đề tài rất đắt giá mà bất cứ sinh viên trường Mỹ thuật nào cũng đều có ít nhất năm sáu phác họa trong hành trang học tập, trong sáng tác của mình (Đặng Phước Đạt, Ký ức của tôi)”

@

Ngày 22 tháng 4 năm 1975, tôi nhận từ BCH/PBVN một tờ giấy phép 48 tiếng và một tờ Sự vụ lệnh về trình diện Pháo Binh SĐ 22 Long An. Tôi về phép Sài gòn trong những ngày hầm hập lửa ấy chỉ đề thăm lại những người thân. Anh chị Phượng&Lộc, Oanh&Được, Đạt, các dì và các chú. Vợ chồng tôi và cháu Trân chỉ một túi xách nhỏ cầm tay. Tất cả quân trang đều để lại căn cứ Long Bình, nơi tôi sẽ về để lên đường đáo nhậm nhiệm sở mới.

Không khí những ngày ấy thật ngột ngạt. Trên các tuyến đường mọi người lao xao. Dòng người di tản về thành phố ngày càng đông. Và tôi đang chờ một tương lai chẳng biết thế nào cho nơi tôi sẽ đến. Đánh vậy, bây giờ tôi vẫn là người lính và trách vụ vẫn phải tròn.

Ngày 24, buổi sáng, tôi hay tin Căn cứ Long Bình bị tấn công tổng lực. Tôi biết rằng thôi thế là xong. Tất cả là chờ số phận. U tối nhiều hơn hy vọng khi chỉ trong mấy ngày đã thay 2 tổng thống.

Buổi tối Sài Gòn vẫn nồng hập cơn oi bức đầu mùa nóng. Đứng trên lan can căn gác gỗ mông lung nhìn ra hun hút sâu con hẽm mà lòng trăm mối. Thỉnh thoảng đâu đây tiếng rít từ một hỏa tiễn 107 hay 122ly của phía bên kia. Một đường bay hoàn toàn hú họa,. chỉ cần rơi vào thành phố đông dân này là đủ uy lực đoạt tinh thần trong thời gian căng thẳng như dây đàn. Tiếng nổ xé toang trong đêm sắc lạnh và phá tàn hoang mọi vật cản quanh chúng, Bất kể ai và nơi đâu. Diện mạo chiến tranh là vô tình và tang thương. Ông Nguyễn văn Thiệu bàn giao cho ông Trần văn Hương đựơc ít hôm, ông Hương lại giao tiếp cho Dương văn Minh như những cầu thủ thiện nghệ trước khi tàn cuộc. Một tuyên bố vỡ toang. Rồi thôi. Viên đá đã ném vào vũng đời. Chỉ như một tiếng thét thất thanh. Rồi xong. Chấm dứt, Mù tăm.

Định mệnh một quốc gia đã xong trên cuộc diện bàn cờ thế giới từ năm 1972. Trò đời như thế và tôi là chốt thí vô phương qua sông. Không cần thiết qua sông.

Mới hôm đến thăm cậu mợ chín Nguyễn Vạn Hùng, Cậu thôi thúc vợ chồng tôi để cậu gởi qua lãnh sự quán Pháp ra đi. Cân nhắc mãi không đành bỏ cha mẹ ra đi. Thôi thì một lần cùng người thân nát tan thân thế trên quê nhà. Cũng là một cách trầm thân. Có ra gì nữa đâu.

“Đến một lúc giọt lệ không chỉ còn là giọt sương mà là chút dường như hơi cay trên đôi mắt len vào bóp xiết đáy tim ta.

Đến một lúc niềm đau không còn thể hiện qua bi ai lệ ứa nhưng đổi bằng nụ cười nhẹ thái hòa gởi sẻ chia xóa nhòa trần ai đắng chát.

Đến một lúc ta không còn nghe thấy chỉ đắng cháy lòng khi đối mặt vẻ khổ sầu và thà nhẹ tiếng thở dài sâu kín.

Cuối cùng mắt tai ta bất lực nhìn quanh mình một màu xám nhuốm hư vô

Trần ai một tấm thân hờ
Tranh đua trọn kiếp đợi giờ tử sinh ”

(Đặng Châu Long, Giọt lệ hóa đá)

Chiếc máy Panasonic 4 band của chúng tôi mang theo trêm đường di tản vẫn bất ly thân cùng tôi trên nẻo đường tuẩn nạn đang đọc tuyên bố cuối cùng giải giới. Tôi đứng lên cùng Hạnh và bé Trân bước ra con hẽm để chứng kiến cơn chết lịm cuối cùng trên con đường Trương Minh Giảng. Đường chỉ dài hơn 200 mét nhưng sao hôm nay chân nặng lòng chùng. Tôi thờ thẩn bước như đang mò mẫm vào con đường đêm u tối. Dường như chẳng chỉ chúng tôi. Nhiều người, rất nhiều người bước ra để nhìn một lần. Nhìn để chứng kiến cuộc long trời. Rồi thôi.

Ngay góc đường Trương Minh Giảng-Trần Quang Diệu đã đậu sẵn một xe Jeep quân sự. Trên xe lô nhô vài người mặc đồ Gia đình Phật tử, tay cầm micro, vai đeo máy microphone, trên cánh tay đeo băng đỏ đang đọc lui tới một thông báo tiếp quản. Nhanh thế, Mà sao những người này. Chỉ là ý nghĩ thoáng qua. Ai nữa cũng xong rồi.

Trên vệ đường, tôi nhìn về hướng chợ, thỉnh thoảng có những người áo thun, quần đùi lầm lũi đi. Họ là những quân nhân không còn gia hạn chứng chỉ tại ngũ đang trên đường đi về. Về đâu, tôi không đành đoạn nhìn tiếp, vợ chồng dẫn nhau về. Một thời yêu dấu đang qua.

Dì dượng tám là thợ may. Dì tám từng là người thợ may áo dài cho Nam Phương Hoàng hậu và dượng là người thợ may veston. Dì kỹ tính. Dượng thì đơn sơ như nhánh cỏ, lành tính hơn những người lành, tuy có nhiều khi như một người cả tin vào thiện tính của con người. Khi tôi về lại nhà, đã thấy dượng ngồi xổm dưới sàn nhà rờ rẫm chiếc xe hơi dành cho trẻ con thường để dưới bộ ván phòng khách. Tôi biết dượng đang nhớ gia đình Tuyết Nga&Trung và cháu ngoại đang còn chưa rõ tin tức trong cơn biến động. Tôi an ủi, hai đứa nó đang ở Phú Quốc, an toàn xa, vả lại binh chủng Hải Quân dư điều kiện giải quyết an toàn cho họ, trước sau gì sẽ có tin bình an. Ngồi nhìn xa xăm nhưng như không nhìn. Dượng bần thần thêm chút nữa bảo tôi. Con dọn hết đồ có liên quan đưa dượng đem bỏ ra kinh sau nhà. Tôi không trả lời lặng lẽ lên gác. Lặng lẽ mang bộ treillis duy nhất tháo cặp lon nguỵ trang màu đen, chiếc huy hiệu Pháo Binh, đôi pháo tréo trên túi áo cùng bảng tên ra khỏi chiếc áo. Mở chiếc nút túi áo lấy ra cặp thẻ bài. Tất cả nhân thân tôi. Lấy miếng giấy gói cẩn thận tất cả. Bước ra lan can nơi có chậu mai lớn của nhà. Mai táng vào đó để đình tiền tạc dạ một thời thanh xuân. Còn lại tôi cột hết vào bao xi măng để gởi dượng khâm liệm trong bùn sình. Còn tôi? Tôi chẳng biết phải làm gì đời tôi:

“Giữa mê cung,
giữa màu đen tối ám
không ai, không thấy ai để cùng chia sẻ
tiếng cầu cứu tuyệt vọng của chúng tôi
không có cuộn chỉ nhiệm màu
không có lông ngỗng rắc đường
chúng tôi mò mẫm bước đi trong vô định
bình tâm đi em
chúng ta sẽ vượt thoát khỏi mê cung này
hoặc ít ra ta sẽ cùng tan biến
tan biến cùng nhau
tay trong tay
hít dài hơi thở
men theo thành vách của mê cung
chúng tôi bước sâu vào
hay bước vòng vòng theo mê cung quỷ quái”

(Đặng Châu Long, Mê cung)

Ngoài đường, cuộc khóc cười vẫn đang diễn ra. Những tràng cười lồng lộng và những tiếng khóc vô thanh sau cơn kinh thiên này, Chỉ có chắc một điều, Tất cả. Tất cả không ai định được lẽ đời sau chinh chiến. Cuộc phân ly sẽ chưa bao giờ có lúc dừng, ít nhất trong sâu thẳm lòng người.

ĐẶNG CHÂU LONG

Viết Tặng Những Người Vợ "Tù Cải Tạo"

 



Viết Tặng Người "Tù Cải Tạo"

 



Buồn Nào Bằng...

 



Chị Hường

 

Hình minh họa (Internet)

CHỊ HƯỜNG 
Phạm Hồng Ẩn

Năm tôi mười lăm. Chị Hường đã mười chín, hai mươi tuổi. Năm đó, tôi chuẩn bị thi trung học đệ nhất cấp thì chị nghỉ học, ở nhà trông coi sản nghiệp gia đình. Ba má chị là thợ máy, phải lên Sài Gòn, chạy theo công việc. Chị thui thủi một mình, nên thường ra quán kiếm tôi, nói chuyện dưới đất trên trời. Sản nghiệp gia đình chị thật ra chỉ có một căn nhà để che gió che mưa, và một thẻo đất chứa đầy những chiếc Peugeot vẹo đầu sứt đuôi thời xa lơ xa lắc.

Những chiếc xe rêu phong đã phủ đầy, cỏ dại mọc kín, vậy mà chúng vẫn nằm đó, ngó tuổi thơ chị Hường đi lên, một cách tội nghiệp. Chị càng lớn càng đẹp. Cái đẹp mộc mạc, mặn mà của loài hoa thôn dã. Lúc này, họa sĩ Lê Trung nổi tiếng trên báo chí. Tôi thường “cọp” báo hàng ngày, nên biết rõ về ông. Những bức tranh vẽ thiếu nữ của Lê Trung thường để lại trong tôi ấn tượng rất đẹp. Chẳng biết ông họa sĩ tài hoa có bao giờ đến Cà Mau chưa? Có gặp chị Hường chưa? Sao mà những bức tranh thiếu nữ nào cũng giống hệt bóng dáng diễm kiều của chị?

Ngoài giờ đến trường, tôi ghi tên thêm học thi. Nhà ông thầy dạy tư ở tận xóm Tân Lập, gần phi trường. Muốn đến học, tôi phải đạp xe trên mấy cây số, phải còng lưng vượt qua cái cầu quay có con dốc cao dễ sợ. Khi đến nơi, phải đứng trước thềm nhà ông thầy vài phút, cầm cuốn tập quạt qua quạt lại cho bớt mồ hôi, mới yên tâm bước vào chỗ học. Thấy tôi cực khổ, chị Hường tình nguyện chở tôi đi học. Đến nơi, chị qua nhà thờ ngang đường, thơ thẩn gần hai tiếng đồng hồ, để chờ tôi tan lớp, chở về. Ngồi sau yên xe, gió thổi lất phất, vạt áo chị tung bay, thốc vào mũi tôi một mùi hương lạ kỳ.

Má tôi có cái quán cóc bên đường, bán tạp hóa và kẹo bánh lặt vặt. Cái quán, cách thẻo đất chị Hường chỉ một lối đi nhỏ. Ngồi trước quán, có thể nhìn thấy những chiếc Peugeot đen xì bên đó, nằm lúp xúp trong cỏ, và bóng dáng chị tha thướt trên sân nhà. Má thương chị, vì tính chị hiền lành, hay giúp đỡ má trong công việc khó khăn. Riêng tôi, tôi thấy chị còn đẹp, thùy mị, và có thể là đối tượng của ông họa sĩ Lê Trung nổi tiếng.

Thương chị, má thường giao quán cho chị, giao cả tôi cho chị trông nom, nhắc nhở học hành. Đôi khi, ban đêm, chị ngủ lại quán với tôi, như người thân trong gia đình. Cho tới một hôm, anh Tư tôi từ Sài Gòn trở về. Mùa Hè, anh được nghỉ học. Anh muốn về quê tìm lại tuổi thơ, đang lẩn trốn đâu đây, quanh bờ ao, vạt cỏ. Nhưng chưa bắt gặp tuổi thơ, anh đã chớm thấy tuổi xuân trên đôi môi hồng thắm của chị Hường. Tuổi xuân lung linh những nụ mộng. Tung tăng một đóa hoa còn khép cánh e lệ, giữa trời xanh.

Từ ngày đó, chị Hường quên tôi, như quên một món đồ không cần thiết nữa. Tôi tự đạp xe đi học thêm. Khi cong lưng đạp kịch liệt lên dốc cầu, tôi kêu lớn tên chị, réo gọi chị như oán trách, giận hờn. Ban đêm, tôi ngủ chèo queo trong quán. Càng lạnh, tôi càng nhớ vòng tay ấm của chị, càng tưởng hơi thở êm đềm của chị đang phà bên tai tôi, thầm thì những lời khuyên bảo đậm đà. Suốt tháng nay, hai người hò hẹn, đưa nhau đi mất tiêu. Có bữa, má tôi phải đi kiếm khắp nơi. Vì cái món ruột, mà anh tôi thích, má đã sẵn sàng để đãi anh. Từ ngày đó, chị Hường được má tôi công nhận là một phần tử trong gia đình. Chị tạm quên những chiếc Peugeot chết tiệt để làm quen với những viên kẹo óng ánh sắc màu, nằm la liệt trong cái quán má tôi.

Chẳng hiểu tình cảm của hai người thế nào, mà anh tôi, bỏ xứ biền biệt. Chị Hường đếm từng ngày, từng tuần, từng tháng, rồi từng năm, rồi từng năm nữa… anh vẫn không trở về. Tội nghiệp, chị mòn mỏi đợi chờ, héo hắt dung nhan, người lúc nào cũng rũ xuống, như một đóa hoa sắp rơi. Má tôi buông tay đầu hàng. Má không biết thằng con trai của mình nghĩ gì, khi cô dâu đã dâng đến trước mặt, khi mọi chuyện đã hoàn tất, chỉ chờ sự trở về của chú rể.

Tôi nhìn chị Hường đau khổ, lòng không cầm được xót thương. Muốn nguôi ngoai, tôi quay qua làm thơ, diễn tả nỗi thất tình của một người yêu bị bỏ rơi. Bài thơ ấu trĩ đó, lại lọt vào mắt chị. Đêm, ngủ trong quán, gần Tết, gió bấc lạnh thấu xương. Tôi day lưng về chị, nằm co quắp, ngủ ngon lành. Tôi tỉnh dậy, vì có cánh tay ấm áp dang ra, kéo nhẹ tôi vào lòng. Và tiếng thỏ thẻ của chị, vang lên trong đêm khuya.

– Bộ em thất tình hả Bé? Con trai mà thất tình, kỳ lắm nha!

Tôi vươn vai cho tỉnh ngủ, rồi rúc sâu vào ngực chị. Một mùi hương kỳ lạ từ da thịt chị phả ra, làm tôi ngây ngất.

– Sao chị biết? Chắc coi lén thơ phải không?

– Thấy em làm thơ, chị tò mò. Té ra em bỏ học, chạy theo một cô gái.

Tôi muốn phân trần với chị, về bài thơ. Tôi làm thơ vì xót thương chị. Vì không chịu nổi cảnh một người yêu chờ mãi một người yêu. Nhưng thôi, hãy để chị nghĩ đến tôi như kẻ thất tình, có vẻ hay hơn, có vẻ lãng mạn hơn đôi chút.

– Em tưởng tượng chị ạ! Em vẫn học thi, có bỏ đâu?

Chị Hường ôm tôi, nhẹ nhàng. Những lọn tóc dài rớt xuống mặt tôi, trong đêm tối, sao nó huyền ảo, lung linh như bức tranh vẽ thiếu nữ của họa sĩ Lê Trung. Tôi mơ màng, quay lại, quấn chặt lấy chị. Và bên tai, vẫn văng vẳng tiếng thỏ thẻ của chị.

– Bé nè! Bé đẹp trai. Hổng có thất tình, nghe chưa?

Cho tới một hôm, chị Hường ra đi. Ngày chị đi, tôi không hay. Khi biết được, cánh cửa nhà chị đã khóa kín. Hàng bông huệ sân trước, rũ lá, khô cành. Đứng trong thẻo đất chị, bên cạnh đống Peugeot tật nguyền, tôi cảm thấy cô đơn muốn khóc. Xung quanh đây, từ căn nhà chị đến cái quán má tôi, dường như đầy dẫy bóng dáng chị, dường như đó là phần thân yêu, buộc chặt vào đời sống tôi, không thể bứt rời.

Những ngày sau, tôi như một kẻ thất tình, thật sự. Tôi bắt đầu chìm ngập theo thơ. Tôi bắt đầu uống rượu, tụ ba tụ năm với bạn bè, say khướt trong những đêm muốn nổi điên. Nhưng tôi vẫn học. Vì học để vươn lên, để thoát khỏi bàn tay nhầy nhụa của chiến tranh. Đến năm tôi chuẩn bị thi tú tài II, chị Hường bỗng trở về. Chị đi thẳng vào quán, ôm má tôi, nức nở. Cả nhà ngạc nhiên. Má tôi cảm động, bật khóc. Tôi ngỡ ngàng, ngó chị. Vừa mừng, vừa xót thương vô vàn. Chị không còn là thiếu nữ mộng mơ của Lê Trung nữa. Chị đã già dặn, đã vàng võ hơn xưa. Hình như chị đang lao lung. Đang bị cuộc đời quăng vào nơi chốn bất an.

Thăm má một lát, chị vội vàng từ giã đi. Tôi chạy theo, nắm tay chị, kéo lại.

– Tối rồi. Chị ngủ lại đây cho vui. Mai sẽ về.

Chị Hường bùi ngùi nhìn tôi. Tôi se sắt nhìn lại. Tôi thấy đôi mắt chị long lanh ngấn lệ.

– Không được em ạ! Chị có bạn. Bạn chị đang chờ.

Từ đó, tôi mất chị Hường luôn.

Mãi sau này, lên đại học, rồi đi lính. Tôi có ý định tìm chị, nên lang bạt khắp nơi. Chẳng mãn nguyện, tôi tìm trong thơ, trong rượu, trong nhan sắc của mỗi gái điếm. Tôi nhào vào cuộc chiến như nhào vào cuộc tình. Đánh rồi rút. Yêu rồi đi. Chẳng cần ngày mai. Chẳng cần tương lai. Cho tới một hôm, tôi về Vũng Tàu. Đêm ở đây yên lành. Biển ở đây êm đềm. Trời đẹp như thế này, sao không thả ra phố làm một cốc cà phê cho ấm dạ? Tôi lủi vào góc một quán nhỏ, ngồi nghe dòng nhạc Trịnh bay nhảy trên môi Khánh Ly.

Quán thưa người, có vài cặp đang thu mình ở các góc vắng, thầm thì. Tôi chờ cà phê bằng những ngụm thuốc lá. Lâu rồi, những ngụm khói vô tri này đã trở thành bằng hữu, bên cạnh tôi, trong suốt các nỗi buồn. Nó cũng hút tung bụi thơ lấm tấm từ hồn tôi, truyền tình cảm xuống bàn tay, bắt viết nên từng con chữ vấy huyết, tận cung tim. Vì vấy huyết, tôi yêu các con chữ này, đến hơi thở cuối. Tôi không bỏ thơ. Có thể, từ lâu, nó đã là phần tế bào, trong khối óc tôi.

– Bé! Bé đấy ư? Bé đi lính hồi nào vậy? Trời ơi! gặp em, chị mừng quá.

Một thiếu phụ rời khỏi cánh tay ông đại úy biệt động quân, xà xuống bên tôi.

– Trời! Chị Hường. Lâu quá, không gặp chị. Chị khỏe không?

Tôi trân trối ngó chị. Nhan sắc tàn phai, năm xưa, đã phục hồi. Khuôn mặt sáng hơn. Đôi môi vươn cao, chín mọng. Chị siết chặt tôi, gật đầu. Những giọt nước mắt rơi xuống, cảm động. Ông đại úy tiến tới, bắt tay tôi. Màu áo vằn vện của ông khiến tôi nhớ đến anh tôi, cũng đang lăn mình trong chiến trận. Tới giờ, tôi vẫn chưa hiểu, tại sao anh tôi nỡ đành bỏ rơi chị Hường?

– Anh Khả, chồng chị. Chị theo ảnh về Biên Hòa sống, lâu rồi.

Chị Hường chỉ tay về ông lính, giới thiệu. Anh Khả hùng dũng, oai nghi với bộ quân phục. Anh trò chuyện cùng tôi, cười cợt như đã quen từ lâu. Sau đó, chúng tôi cũng chia tay. Chị Hường lại thút thít. Chị ôm vai tôi, không muốn rời. Mùi hương kỳ lạ năm xưa lại phả vào mũi tôi, khiến tôi xúc động. Những giọt nước mắt tự nhiên lăn xuống, rơi trên tóc chị.

Tôi trở lại Cà Mau, lần cuối, lúc chế độ cộng sản nhuộm đỏ miền Nam. Trở lại thăm thằng em út đang lặn ngụp trong đời sống cơ hàn, tiện thể, thăm bạn bè. Những đứa học chung lớp. Những đứa từng làm thơ, từng uống rượu nổi điên, trong những đêm hào sảng. Cũng muốn gặp lại chị Hường, xem đời sống chị ra sao, sau khi anh Khả gãy súng.

Cà Mau, những năm đó, thảm thương. Dân số tăng nhanh. Cuộc sống bần hàn hơn xưa. Người ta tranh nhau kiếm sống. Tranh nhau buôn bán. Có nhà, tuôn hết những vật kỷ niệm trong gia đình ra đổi gạo, ăn qua ngày. Tôi tìm không gặp một thằng bạn nào. Dường như, cuộc sống khó khăn đã lôi tụi nó đi khắp nơi, bươn chải. Còn thằng em tôi, mua nợ một chiếc gắn máy cà tàng, chạy xe ôm, nuôi con hằng bữa.

Nhưng tôi gặp chị Hường. Chị phất lên như diều gặp gió. Chị đang an hưởng trong cảnh lầu cao cửa rộng. Ba má chị, sau 30 Tháng Tư, trở về, là cán bộ cao cấp của phe bên kia. Ngày xưa, họ tung tin đi Sài Gòn làm thợ máy, nhằm che mắt thiên hạ. Tôi gặp chị không khó khăn. Vì nghe tin tôi về, chị vội vã tìm tôi. Chị Hường chở tôi trên chiếc xe Honda đàn bà. Chị ghé nhiều chỗ. Mỗi chỗ, chị dừng lại lâu, cho tôi nhớ kỷ niệm. Tôi nhớ nhất cái quán má tôi. Những đêm giáp Tết, trời lạnh tái tê, tôi và chị Hường ôm nhau ngủ, một cách hồn nhiên. Cái quán bây giờ không còn nữa. Mảnh đất đó đã bị người trong bưng, túa ra, chiếm mất rồi. Chạy loanh quanh một chập, chị Hường tấp vào một quán cà phê bên đường. Quán vắng khách. Những cái bàn lộ thiên, trải dài ngoài vườn. Không khí thiên nhiên, hợp với tâm hồn thôn dã của chúng tôi. Chị Hường chọn cái bàn sâu nhất, giữa hàng cây rậm rì, xanh mướt.

– Mấy năm trước, má rời Cà Mau, chị mất liên lạc với má luôn. Những năm sau này, chị tìm em khắp các trại tù miền Nam, nhưng vô vọng. Bộ người ta đưa em ra Bắc hả ?

– Không chị. Em bị nhốt ở miền Đông. Rừng Xuyên Mộc.

Chị chăm chú nhìn tôi, thở dài.

– Anh Khả mất. Chị như người không có linh hồn. Buồn thật buồn em ạ!

Tôi giật mình. Người đại úy mà tôi chỉ gặp một lần đã mến phục. Mất rồi sao? Tôi nóng nảy.

– Ảnh mất lâu chưa? Lâu chưa?

– Ảnh tử trận. Trước Tháng Tư chỉ vài tuần.

Nói xong, chị đưa hai tay ôm đầu, vò tóc, nghẹn ngào. Tôi ngậm ngùi. Nhớ đến anh tôi. Anh tôi cũng vậy. Cũng thời gian đó, anh tôi mất tích ở “đại lộ kinh hoàng”, trong toán quân di tản về miền Nam. Nhưng tôi không dám thở than điều này. Chẳng ích gì. Chỉ làm cho vết thương lòng chị Hường, vấy thêm đau nhức.

Chị Hường tiếp tục tức tưởi.

– Bây giờ, chị đã có chồng. Ba chị bắt, ép gả cho một ông cán bộ.

Tôi tròn xoe mắt. Chị lấy cán bộ? Thôi rồi, chị đã phản bội anh Khả, phản bội quê hương, đất nước. Nhất là, chị phản bội tấm lòng của em. Chị biết chưa? Tôi hét lớn. Nếu có thêm vài ngụm rượu, chắc chắn tôi sẽ nổi điên, đập phá tứ tung. Chị Hường khóc rống lên. Tiếng khóc ai oán biết bao. Xót thương biết bao. Tiếng khóc làm tôi nguôi giận, hối hận, và tự trách mình sao quá đỗi hung tàn. Tôi lặng lẽ đứng dậy, đến bên chị Hường vuốt vai, vỗ về.

– Em xin lỗi chị. Giận quá, mất khôn. Chị biết không? Em căm thù giặc. Căm thù đến hơi thở cuối cùng.

Tôi chưa nỡ bỏ Cà Mau đi sớm. Vì thằng em đơn chiếc. Nó vừa nuôi con vừa chạy xe ôm kiếm sống. Vợ nó làm ăn xa, lâu lâu mới thăm nhà một lần. Nó cần tôi ở lại đây, trông mấy đứa nhỏ, chừng tháng sau, mẹ chúng trở về. Thương em, tôi chấp nhận lời yêu cầu của nó. Cũng là dịp tôi có thời gian tìm bạn, xem bạn có công việc nào giúp mình sinh sống không?

* * * * *
Một hôm, thằng em phóng xe về, la lớn.

– Chị Hường đang bị công an bắt kìa, anh Bé.

Tôi đang bới cơm cho con bé, nghe đến tên chị Hường, bỗng hoảng hốt, chạy ra.

– Sao bị bắt? Làm gì bị bắt?

– Chị cầm dao đâm chồng, khi ổng đang ngủ. Ớn quá!

Tôi nhào lên xe thằng em, đốc nó chạy nhanh đến nhà chị Hường. Đám đông bao quanh căn nhà. Công an cố gắng đẩy dòng người hiếu kỳ sang một bên, lấy chỗ cho xe cộ chạy qua. Tôi lủi vào dòng người, cố chen ra phía trước, dáo dác tìm bóng chị Hường. Trong nhà chị, công an dày đặc. Họ đứng che lấp khoảng cửa, bít kín hiện trường để làm việc gì đó, với kẻ gây án. Thất vọng, tôi chỉ còn biết lắng nghe dư luận xầm xì.

– Nạn nhân được xe cứu thương chở đi rồi. Máu ra nhiều quá, tôi e khó sống.

– Giết được thằng nào hay thằng nấy. Ở đâu, về đây làm trời.

Nóng lòng quá, tôi khều một ông kế bên, hỏi nhỏ.

– Thủ phạm bị đưa đi chưa chú? Hay đang còn trong nhà?

– Chưa đưa đi đâu. Người ta còn điều tra mà.

Lát sau, đám công an đưa chị Hường ra xe. Lúc này, hai tay chị bị còng, bẻ quặt ra phía sau. Tôi cố vượt đám đông, tiến tới gần chị.

– Chị Hường!

Chị quay lại, thấy tôi. Ánh mắt bỗng trở nên nghiêm nghị, sắt đá và cương quyết. Đám công an lôi chị, vượt lên, đi thẳng về chiếc xe bít bùng. Nhưng tôi vẫn nghe rõ giọng chị, oang oang trong gió.

– Chị trả thù chồng. Nó giết anh Khả.

PHẠM HỒNG ÂN

Tưởng tiếc chị Hường,  

Escondido, California, Feb 2022