• nói đến lãnh đạo ta là phải có chữ
'vĩ đại', 'thiên tài', 'sáng suốt', 'anh minh', 'kính yêu'; còn lãnh đạo đối
phương thì 'nguỵ', 'tay sai', 'du côn', 'ác ôn';
• nói về đảng thì phải đi kèm với
'quang vinh', 'muôn năm', 'thần thánh', 'bách chiến bách thắng';
• nói đối phương thì 'tàn bạo';
• với âm mưu của kẻ thù thì phải có
'tinh vi', 'hiểm độc';
• với chánh quyền địch thì phải có
chữ 'tay sai', 'bù nhìn';
• văn hóa ở miền Bắc thì đi liền với
chữ 'xã hội chủ nghĩa', 'văn minh';
• văn hoá ở miền Nam thì 'suy đồi';
• nói về chiến thắng thì phải 'vẻ
vang', 'vang dội', 'giòn giã';
• nói về giải cứu thì 'ngạo nghễ';
• với lịch sử thì 'rực rỡ';
• với tranh đấu thì 'oanh liệt';
• với dân tộc thì 'bất khuất', 'vĩ
đại';
• với chính sách thì “đúng đắn“;
• với chỉ đạo thì 'sâu sát', 'sáng
suốt';
• với tội ác thì 'dã man'.
Với cách nói/viết như thế, nhà cầm quyền mới tạo ra một cách nói mới mà trước đây chưa bao giờ có. Chẳng hạn như báo chí trong Nam trước 1975 chưa bao giờ gọi ông Ngô Đình Diệm hay Nguyễn Văn Thiệu là 'vĩ đại' hay 'thiên tài'; ngược lại, giới kí giả đặt cho họ nhiều biệt hiệu để chế giễu họ. Nhưng sau 1975 thì 'vĩ đại' và 'thiên tài' xuất hiện hầu như hàng ngày.
Ngoài những cách nói thậm xưng trên, người miền Nam sau 1975 còn phải làm quen với những chữ hay mệnh đề mới như:
cái gọi là, chế độ ăn uống, đăng kí, hộ khẩu, căn hộ, kiểm điểm, đề xuất, bồi dưỡng, chỉ đạo, qui hoạch, kênh phát sóng, chùm ảnh, chùm thơ, ùn tắc, ôtô con, xe con, mặt bằng, phản ánh, nghệ sĩ ưu tú, nghệ sĩ nhân dân, biện chứng, phạm trù, đối tượng, v.v.
Và mới đây là những chữ mới như: thế lực thù địch, yếu tố nước ngoài, tự diễn biến, tự chuyển hoá, ổn định xã hội, bộ phận không thể tách rời, bóp méo, xuyên tạc, can thiệp thô bạo, quyền lợi chánh đáng, quyền lợi hợp pháp, v.v.
Thời đó , tôi tự hỏi mấy chứ này xuất phát từ đâu. Sau này ra nước ngoài và có dịp đọc báo Anh ngữ và có dịp ghé qua Tàu, tôi mới biết tất cả đều xuất phát từ Tàu hay du nhập hay bắt chước từ hệ thống truyên truyền của Tàu.
Chế độ Mao rất ý thức rằng chữ, ngoài chức năng thông tin, còn là một cách suy nghĩ. Chữ cũng có thể trở thành võ khí, và chánh phủ võ trang hoá ngôn ngữ để khuếch đại sự tức giận, nhắm vào một người hay nhóm để đổ lỗi, và hợp thức hoá sự bất công. Do đó, Mao và tay sai đã làm thay đổi Hoa ngữ bằng cách đưa vào hàng loạt ngữ vựng mới.
Chẳng hạn như để gieo nghi ngờ, họ sáng chế ra mệnh đề 'cái-gọi-là' (dịch sang tiếng Anh là "so-called"), và mệnh đề này rất phổ biến trong thời Mao và lan tràn sang các nước XHCN khác. Theo học giả Peter Pomerantsev (London School of Economics) 'cái-gọi-là' là mệnh đề dùng để tạo ra những điều kiện bất định, cho ra cảm giác không có cái gì là chắc chắn, và tất cả đều có thể, tức là gieo một sự nghi ngờ.
Hay để bịt miệng mấy người biểu tình ở Hồng Kông, nhà cầm quyền mới đưa ra khái niệm 'ổn định xã hội'. Các nhà ngôn ngữ học phân tích rằng mệnh đề này có một lịch sử khá dài trong chủ nghĩa toàn trị. Khái niệm 'ổn định' rất mơ hồ, nhưng mơ hồ chính là đặc tính mà chế độ toàn trị muốn duy trì để đàn áp những làn sóng chống đối nhà nước toàn trị, hay dùng để bịt miệng những người phản biện và đòi cải cách thể chế.
Các học giả nghiên cứu ngôn ngữ còn chỉ ra rằng trong các thể chế toàn trị, có những chữ và mệnh đề không có ý nghĩa gì cả. Ví dụ như Putin nói về "dictatorship of the law" (độc tài pháp luật) và "free expression of citizen will" (tự do biểu đạt ý chí của công dân) là chẳng có nghĩa gì cả. Nhà văn và cựu tổng thống Tiệp Khắc Václav Havel cũng từng nhận xét rằng bởi vì các chế độ hậu toàn trị bị giam cầm trong những lời nói dối của họ, nên họ phải giả tạo mọi thứ.
Nhưng khổ nỗi cách nói thậm xưng và những ngữ vựng mới này được phát đi từ những cơ quan truyền thông của nhà nước, nên chúng có uy quyền và được xem là 'chánh thống'. Loại ngôn ngữ chánh thống này theo thời gian nó bấu kết vào đầu óc con người, và do đó trở thành một phương tiện nhồi sọ. Đó chính là một tác hại lâu dài vậy.
Nguyện Tuấn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét