Chủ Nhật, 7 tháng 7, 2024

Thơ Chữ Hán Của Nguyễn Du - Nam Trung Tạp Ngâm Bài 33, 34, 35 Và 36



THƠ CHỮ HÁN CỦA NGUYỄN DU - TẬP 2 : NAM TRUNG TẠP NGÂM - BÀI 33, 34, 35 VÀ 36
Thầy Dương Anh Sơn 


Bài 33

ĐẠI TÁC CỬU THÚ TƯ QUI                                                  代作久戍思歸 (二)

Thiên nhận Hoành Sơn nhất đái hà,                                           千仞橫山一带河,
Bạch vân hồi thủ cách thiên nha (nhai).                                    白雲回首隔天涯.
Tân thu khí hậu thôi hàn chử,                                                    新秋氣候催寒杵,
Cố quốc quan sơn ký dạ già.                                                      故國關山寄夜笳.
Thiên địa nhất thân trung dịch hiếu,                                          天地一身忠易孝,
Phong trần vạn lý quốc vong gia.                                              風塵萬里國忘家.
Nguyệt trung hoành địch thái vô lại,                                         月中橫笛太無賴,
Bán dạ giang thành suy Lạc Hoa.                                              半夜江城吹落花.

Dịch nghĩa:

Dãy Hoành Sơn cao ngàn thước và một dải sông, - Quay lại nhìn vầng mây trắng cách xa ở chân trời. - Mùa thu mới về với khí hậu lạnh lẽo như thúc dục việc lấy chày nện vải, - Nơi chốn cửa ải, núi non xa xôi cách trở nhớ về quê nhà gửi vào tiếng kèn lá lúc đêm hôm. (c.1-4) - Một thân trong trời đất phải lấy chữ trung thay cho tấm lòng hiếu thảo, - Vì nước phải vào chốn gió bụi muôn trùng quên đi chuyện nhà. - Giữa ánh trăng, nâng chiếc sáo nằm ngang không mong chờ điều tốt đẹp nào cả, - Nửa đêm nơi thành lũy bên sông thổi
khúc sáo “Hoa mai rơi” não nùng. (c.5-9)

Tạm chuyển lục bát:

LÀM THAY NGƯỜI ĐI THÚ - ĐÃ LÂU MONG TRỞ VỀ (Bài 2)

Hoành Sơn ngàn thước, dải sông,
Chân trời ngoảnh lại trắng ngần mây xa.
Lạnh về chày giục thu qua,
Kèn đêm gửi đến quê nhà cách ngăn.
Đất trời đổi “hiếu” thay “trung”,
Quên nhà, gió bụi ngàn trùng nước non.
Giữa trăng nâng sáo chẳng mong,
Nửa đêm “Hoa rụng” sáo lừng thành sông

Chú thích:

- nhận 仞: đơn vị đo lường đời nhà Chu (T.H) (tám thước bằng một nhận tương đương 6,8m bây giờ).
- chử 杵: chày nện vải để giặt giũ cho sạch hoặc nện vào đay gai cho tơ ra để dệt vải.
- quan sơn 關山: cửa ải biên giới và núi non. Đây chỉ vùng núi non biên giới cách trở xa xôi.
- già 笳: loại kèn thổi bằng cách lấy lá cuộn lại.
- trung hiếu 忠孝: trung là đạo thờ vua, còn hiếu là đạo thờ cha kính mẹ. Đây là hai mục tiêu hàng đầu của đạo làm người (“Trai thì trung hiếu làm đầu” Lục Vân Tiên-Nguyễn Đình Chiểu) theo quan niệm thời trước chịu ảnh hưởng từ lễ giáo của Trung Hoa.
- thái 太: to lớn, rất lớn, quá cỡ...
- vô lại 無賴: kẻ ác, kẻ không ra gì, kẻ gian dối; không nơi nương nhờ, không có
điều tốt đẹp (thái vô lại: không có điều tốt đẹp lớn lao).
- giang thành 江城: thành trì ở bên sông.Đây chỉ thành Đông Hải bên sông Nhật Lệ (Quảng Bình), nơi Nguyễn Du từng làm Cai bạ khoảng bốn năm (1809-1813)
- Lạc Hoa 落花: khúc sáo có tên đầy đủ là “Mai hoa lạc”(hoa mai rụng rơi) hoặc “Lạc mai hoa” âm điệu buồn bã da diết của những người đi thú hoặc khách đi xa hay thổi.

Bài 34

TỐNG NGÔ NHỮ SƠN CÔNG XUẤT TRẤN NGHỆ AN     送吳汝山公出鎭義安

Cẩm La giang thượng khấu chinh an,                                        錦羅江上扣征安,
Bát hội phi nan tích biệt nan.                                                     拜會非難惜别難.
Bát đại kỳ văn hoa lưỡng quốc,                                                 八大奇文花兩國,
Nhất xa cao vũ nhận toàn Hoan.                                                一車高雨潤全驩.
Nhân tòng đạm bạc tư vi chính,                                                 人從淡泊斯為政,
Thiên vị kiềm lê bất phóng nhàn.                                              天為黔黎不放閒.
Bắc vọng Hồng sơn khai đức diệu,                                            北望鴻山開德曜,
Thiên nhai cử tửu khánh hương quan.                                       天涯舉酒慶郷關.

Dịch nghĩa:

Phía trên dòng sông Cẩm La đã lỏng buông dây cương cho ngựa dừng lại, - Chào hỏi khi gặp nhau không khó, chỉ khi chia tay tiếc là khó khăn thay! - (Tài văn chương đẹp đẽ của ông) cũng giống như tám nhà văn lớn của Trung Hoa đã làm thêm vẻ lạ hay của hai nước (Việt Trung), - Một xe mưa móc thấm nhuần khắp chốn đất Hoan Châu. (c.1-4) - Tính giản dị sẽ theo ông, khi làm việc quan, - Trời chưa cho ông được thong thả hưởng nhàn là vì dân đen. - Trông về phía bắc nơi dãy núi Hồng, ánh sáng tốt đẹp của con người có đạo đức sẽ được mở ra, - Ở nơi góc trời , xin nâng chén để chúc mừng quê hương với mối quan hệ này (c.5-8)

Tạm chuyển lục bát 

TIỄN NGÔ NHỮ SƠN RA TRẤN NGHỆ AN

Phía trên dòng Cẩm ngựa dừng,
Gặp chào chẳng khó, khó lòng chia tay.
Tài văn hai nước đẹp hay,
Một xe mưa móc thấm đầy xứ Hoan!
Theo người đơn giản việc quan,
Trời chưa buông thả cho nhàn vì dân.
Nhìn ra đức sáng non Hồng,
Góc trời nâng chén chúc mừng quê hương.

Chú thích:

- Ngô Nhữ Sơn 吳汝山: tức Ngô Nhân Tĩnh hay Ngô Nhân Tịnh 吳仁靜(1761-1813), tự Nhữ Sơn, hiệu là Thập Anh 拾英, gốc người Quảng Đông bên Trung Hoa, sinh ra ở Gia Định theo những người Minh Hương (bỏ nước ra đi vì nhà Minh bị mất do quân Mãn Thanh). Ông là một trong ba nhà thơ có tiếng trong “Gia Định Tam gia” của Bình Dương Thi Xã 平陽詩社. Ông từng đi sứ sang Trung Hoa thời Gia Long và văn tài của ông được các nhân sĩ nước này rất ngợi khen.
Năm 1811 đang làm Tham Tri Bộ Hộ được lệnh bổ về làm Hiệp Trấn thành Nghệ An.
- Cẩm La 錦羅: một dòng sông nhỏ ở Quảng Bình.
- bát đại kỳ văn 八大奇文: văn chương kỳ tài của tám nhà văn ưu tú đời Đường, Tống bên Trung Hoa: Hàn Dũ, Liễu Tôn Nguyên, Âu Dương Tu, Vượng An Thạch, Tô Tuân, Tô Thức, Tô Triết và Tăng Củng.
- Hoan 驩: tức vùng Hoan Châu xưa(Châu Hoan), nay là vùng Nghệ An Hà Tĩnh...
- tư 斯: cho ra, tách ra, ở đây, ắt là, như thế...
- chính 政: làm việc cai trị sửa sang, làm việc quan...
- kiềm lê 黔黎: dân đen (kiềm: đen), cùng nghĩa với “lê dân 黎民”. Người dân( xưa kia có khi vẫn gọi là “lê dân”) luôn chịu sự cai trị của chính quyền.
Nếu kẻ cầm quyền là những người có phẩm chất đạo đức tốt, thương yêu dân thì việc cai trị sẽ đem đến sự yên vui cho mọi nhà và đất nước sẽ thịnh trị và ngược lại....
- khai đức diệu 開德曜: mở ra phẩm chất đạo đức tốt đẹp như ánh sáng mặt trời mặt trăng (diệu).
- khánh hương quan 慶郷關: chúc mừng mối quan hệ với quê nhà...

Bài 35

Y NGUYÊN VẬN KÝ THANH OAI NGÔ TỨ NGUYÊN     依元韻寄青威吳四元

Nhất dạ tây phong đáo hải mi,                                                   一夜西風到海湄,
Đồng niên giao nghị thượng y y.                                               童年交誼尚依依.
Đại canh hữu thiệt sinh thường túc,                                           代耕有舌生常足,
Khứ quốc hà tâm lão bất qui?                                                    去國何心老不歸.
Tiêu khát nhật tăng Tư Mã bệnh,                                               消渴日增司馬病,
Mộng hồn dạ nhập Thiếu Lăng thi.                                           夢魂夜入少陵詩.
Lâm giang vị cảm đề Anh Vũ,                                                   臨江未敢題鸚鵡,
Hoàn hữu Trung nguyên nhất đại nhi.                                       還有中原一大兒.

Dịch nghĩa:

Một đêm gió từ phía tây đến bờ biển, - Tình cảm bạn bè qua lại từ những ngày còn ấu thơ vẫn còn như xưa. - Anh lấy lưỡi thay cho việc cày bừa, đời sống vẫn thường no đủ, - Còn tôi tấm lòng đã già đi xa quê hương sao không quay về? (c.1-4) - Bệnh “tiêu khát, cần nước” như chàng Tư Mã Tương Như ngày càng tăng thêm, - Đêm đêm hồn mộng (của tôi) vẫn nhập vào những vần thơ của Thiếu Lăng.- Đến bên sông chưa thể đề bài thơ “Anh vũ”, - vì rằng nơi Trung nguyên đã có một con người tầm vóc lớn lao rồi! (c.5-8)

Tạm chuyển lục bát:

GỬI ÔNG NGÔ TỨ NGUYÊN Ở THANH OAI THEO NGUYÊN VẬN

Một đêm bờ biển gió tây,
Tình bè bạn vẫn như ngày thơ xưa.
Sống bằng lưỡi đủ thay bừa,
Lòng già xa xứ sao chưa về nào?!
Tương Như “bệnh khát” tăng cao,
Thiếu Lăng hồn mộng thơ vào đêm hôm.
Chưa làm “Anh vũ” bên sông,
Bởi nhà thơ lớn có Trung nguyên rồi.

Chú thích:

- Thanh Oai 青威: là tên huyện Hà Đông gần thành Thăng Long. Còn Ngô Tứ Nguyên chưa rõ là nhân vật như thế nào. Có lẽ đây là một nhân vật rất có tài về thơ phú khiến Tố Như khâm phục.
- hải mi 海湄: bờ biển có cỏ mọc ven bờ.
- đồng niên 童年: tuổi còn thơ ấu ,còn trẻ con(nhi đồng)
- giao nghị 交誼: mối giao hảo tốt đẹp với nhau.
- y y 依依: vẫn như cũ, vẫn như xưa, dáng mềm mại.
- đạị canh hữu thiệt 代耕有舌: thay thế cày cấy bằng lưỡi chỉ việc dạy học...
- khứ quốc 去國: đi xa, xa quê hương.
- tiêu khát 消渴: rất cần đến nước; bệnh của những người thường đổ mồ hôi và khát nước.
- Tư Mã 司馬: tức Tư Mã Tương Như 司馬相如(179-117 TCN) tự là Trường Khanh 長卿, người Thành Đô đời nhà Hán (T.H). Ông là một nhà thơ và nhà văn đa tài lại giỏi chơi đàn trong thời Tây Hán. Ông có bệnh “cần nước” (tiêu khát). Tương Như nổi tiếng với bài “Phượng cầu hoàng 鳳求凰” làm Trác Văn Quân mê mẩn bỏ nhà đi theo...
- Thiếu Lăng 少陵: tức Đỗ Phủ, nhà thơ lớn của Trung Hoa đời Đường.
- Anh Vũ 鸚鵡: bãi cát bồi giữa sông Trường Giang bên Trung Hoa thành Vũ Xương được nổi tiếng nhờ bài thơ của Thôi Hiệu với câu: “Phương thảo thê thê Anh Vũ châu 芳草萋萋鸚鵡洲” (Cỏ thơm vẫn tốt tươi trên bãi cát bồi Anh Vũ...). Lý Bạch là một nhà thơ phóng khoáng được xem là một “Thi tiên” (ông tiên trong làng thơ) khi đọc bài thơ Hoàng Hạc Lâu 黃鶴樓 của Thôi Hiệu (đời Đường Huyền Tông) quá tuyệt vời nên không đề thơ lên vách lần nữa.
- Trung nguyên 中原: các cụ xưa thường bắt chước bên Trung Hoa gọi vùng châu thổ sông Hồng ngoài Bắc là Trung Nguyên giống như người Hoa gọi vùng châu thổ của sông Dương Tử.
- đại nhi 大兒: cách gọi( giống như chữ “nam nhi 男兒”- người trai trẻ,người đàn ông mạnh mẽ) chỉ người có tầm vóc lớn lao về một mặt nào đó.

Bài 36

NỄ GIANG KHẨU HƯƠNG VỌNG                                       瀰江口鄉望

Vọng vọng gia hương tự nhật biên,                                           望望家鄉似日邊,
Hoành Sơn chỉ cách nhất sơn điên.                                            橫山只隔一山巓.
Khả liên quy lộ tài tam nhật,                                                      可憐歸路纔三日,
Độc bão hương tâm dĩ tứ niên.                                                  獨抱郷心已四年.
Yến Đảo thu hàn thanh nhập hải,                                              燕島秋寒青入海,
Nễ Giang triều trướng bạch hàm thiên.                                     瀰江潮漲白涵天.
Ngoại châu kim dữ ngô châu biệt,                                             外州今與吾州别,
Khán khán nhân phong bất tự tiền.                                            看看人風不似前.

Dịch nghĩa:

Trông ngóng về quê nhà xa như là kề bên mặt trời, - Chỉ cách ngăn bởi dãy Hoành Sơn một đỉnh núi cao thôi. - Khá thương thay cho con đường về chỉ vừa ba ngày là đến nơi, - Vậy mà phải ôm nỗi nhớ quê hương trong lòng đã bốn năm nay cho riêng mình! (c.1-4) - Vào mùa thu, đảo Yến lạnh lẽo in sắc xanh xuống mặt biển, - Khi thủy triều dâng lên, dòng sông Nễ chứa đựng ánh mặt trời trắng xóa. - Vùng ngoài nay đã khác biệt với vùng của ta. - Hãy nhìn xem thói tục con người (ở đây) cũng không như ngày trước. (c.5-8)

Tạm chuyển lục bát 

TRÔNG NGÓNG QUÊ HƯƠNG TỪ CỬA SÔNG NỄ

Quê nhà trông ngóng ven trời,
Hoành Sơn một đỉnh mà thôi cách lìa.
Chỉ vừa ba bữa đường về,
Bốn năm ôm tấm lòng quê riêng mình.
Biển thu đảo Yến lạnh xanh,
Triều dâng sông Nễ trắng loang ánh trời.
Châu ngoài nay khác châu tôi,
Không như trước nữa thói người hãy xem!

Chú thích:

- Nễ Giang 瀰江: còn gọi là sông Ròn nằm ở phía bắc Quảng Bình gần đèo Ngang đi qua dãy Hoành Sơn , nhìn ra biển có đảo Yến.
- nhật biên 日邊: kề bên mặt trời. Chỉ sự xa xôi cách trở.
- điên 巓: chỏm núi hay chóp núi cao...
- tài 纔: vừa, chỉ, chỉ vừa...
- bão 抱: ôm ấp, ôm vào....
- hàm 涵: chứa đựng, thấm đẫm, chứa bên trong....
- Yến đảo 燕島: tức hòn Én nhìn thấy từ cửa sông Ròn
- châu 州: vùng, khu vực, bãi đất bồi giữa sông có thể ở được, vùng đất được phân chia....
- nhân phong 人風: thói tục, lề thói của con người hay một cộng đồng, một bộ tộc, một dân tộc...

(Lần đến: phần cuối của NAM TRUNG TẠP NGÂM -

Dương Anh Sơn

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét