Tại Việt Nam, theo Bộ Y tế, mỗi năm nước ta ghi nhận thêm 200.000 ca đột quỵ, trong đó khoảng 50% trường hợp tử vong. Nhiều người sống sót sau đột quỵ phải sống chung với các di chứng về thần kinh, vận động... Tỷ lệ đột quỵ ở người trẻ tuổi đang có xu hướng tăng lên, trung bình khoảng 2% mỗi năm, số lượng nam giới cao gấp bốn lần nữ giới. Trong đó, nhiều người bệnh không biết mình mang yếu tố nguy cơ, đến khi bị đột quỵ, đo huyết áp, thử đường huyết mới phát hiện.
Còn ở Mỹ, theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC), mỗi năm có hơn 795.000 người bị đột quỵ, trong đó có khoảng 610.000 trường hợp là đột quỵ lần đầu tiên.
Trong năm 2019, đột quỵ là nguyên nhân gây tử vong đứng hàng thứ 2 trên thế giới, ước tính chiếm khoảng 11%.
Đột quỵ có 3 thể chính:
- Đầu tiên và phổ biến nhất (ước tính chiếm khoảng 87% các trường hợp) là đột quỵ thiếu máu não, xảy ra khi mạch máu cung cấp oxy cho não bị tắc nghẽn.
- Thứ hai là đột quỵ xuất huyết não, xảy ra do nứt vỡ các động mạch trong não dẫn đến phá hủy các mô xung quanh.
Cục máu đông làm ngừng lưu lượng máu đến một khu vực của não trong bệnh thiếu máu cục bộ (ảnh trái), trong khi máu rò rỉ vào mô não trong trường hợp xuất huyết (ảnh phải). Nguồn: scientificanimations.
- Thể thứ ba của đột quỵ là thiếu máu não thoáng qua (TIA), xảy ra khi dòng máu tới não là bị tắc nghẽn tạm thời, thường trong thời gian ngắn hơn 5 phút.
Đột quỵ xảy ra rất phổ biến, tuy nhiên không phải tất cả các lời đồn đại về đột quỵ đều là sự thật.
Có khá nhiều hiểu lầm còn tồn tại, khiến người bệnh bỏ qua các cơ hội vàng để hồi phục hoặc giảm thiểu nguy cơ đột quỵ.
Để giúp mọi người xóa bỏ những lầm tưởng và nâng cao hiểu biết, chúng tôi đã liên lạc với Bác sĩ Rafael Alexander Ortiz, trưởng khoa Phẫu Thuật nội mạch thần kinh và Xạ trị thần kinh can thiệp tại Bệnh viện Lenox Hill, Mỹ.
Hiểu lầm 1: Đột quỵ là vấn đề của tim
Mặc dù các yếu tố nguy cơ của bệnh tim mạch và đột quỵ có liên quan tới nhau, một số người nhầm lẫn đột quỵ và nhồi máu cơ tim. Đột quỵ xảy ra tại não, nguyên nhân do tắc nghẽn hoặc nứt vỡ của các mạch máu trong não. Trong khi đó, nhồi máu cơ tim xảy ra bởi sự tắc nghẽn dòng máu nuôi dưỡng tim.
Hiểu lầm 2: Đột quỵ không thể phòng tránh
Bác sĩ Ortiz nói: "Các yếu tố nguy cơ phổ biến nhất gây ra đột quỵ là tăng huyết áp, hút thuốc lá, tăng cholesterol máu, béo phì, đái tháo đường, chấn thương ở đầu hoặc cổ, và rối loạn nhịp tim".
Nhiều trong số các yếu tố nguy cơ kể trên có thể được điều chỉnh bởi lối sống. Tập thể dục thường xuyên và ăn uống với chế độ lành mạnh có thể giảm các yếu tố nguy cơ như tăng huyết áp, tăng cholesterol máu, béo phì, đái tháo đường.
Các yếu tố nguy cơ khác bao gồm sử dụng nhiều bia rượu và căng thẳng. Loại bỏ hoặc làm giảm các yếu tố này cũng có thể làm giảm nguy cơ của đột quỵ.
Hiểu lầm 3: Đột quỵ không có yếu tố di truyền
Các rối loạn đơn gen như bệnh thiếu máu hồng cầu hình liềm làm tăng nguy cơ đột quỵ.
Các thành viên trong cùng một gia đình có cùng môi trường sống và lối sống. Do đó, môi trường và thói quen sinh hoạt không lành mạnh có thể làm tăng nguy cơ đột quỵ ở tất cả các thành viên, đặc biệt là khi có các yếu tố di truyền kèm theo, ví dụ như tăng huyết áp hoặc các yếu tố nguy cơ liên quan đến tim mạch.
Hiểu lầm 4: Khó phát hiện triệu chứng đột quỵ
Các triệu chứng phổ biến nhất của đột quỵ tạo nên từ viết tắt F.A.S.T:
· F (face): Khuôn mặt bị méo, một bên mặt bắt đầu tê liệt và nụ cười bị méo một bên.
· A (arm): Một cánh tay bắt đầu yếu hoặc tê bì, khi nâng lên thì rơi xuống từ từ.
· S (speech): Nói khó, nói ngọng.
· T (time): Thời gian là vàng, hãy gọi tổng đài cấp cứu 115 ngay khi phát hiện các triệu chứng trên.
Một số triệu chứng khác của đột quỵ bao gồm:
· Tê liệt hoặc yếu mặt, cánh tay, chân, hoặc một bên cơ thể.
· Lú lẫn, gặp khó khăn trong việc nói hoặc hiểu lời nói.
· Khó nhìn ở một hoặc cả hai mắt.
· Đi khó, bao gồm chóng mặt, mất cân bằng hoặc cả hai.
· Đau đầu dữ dội không có nguyên nhân.
Hiểu lầm 5: Đột quỵ không thể điều trị
Bác sĩ Ortiz giải thích: "Có một số niềm tin cho rằng đột quỵ là không thể hồi phục và không thể điều trị. Nhưng niềm tin này không chính xác".
Đây là thông tin đúng: Điều trị cấp cứu đột quỵ với thuốc tiêu sợi huyết, lấy huyết khối bằng cách đặt dụng cụ xâm lấn tối thiểu vào mạch máu (stent), hoặc phẫu thuật... có thể điều trị được các triệu chứng của đột quỵ ở rất nhiều bệnh nhân, đặc biệt nếu họ đến bệnh viện đủ sớm để thực hiện các liệu pháp điều trị (một vài phút hoặc một vài giờ từ khi khởi phát triệu chứng).
Các triệu chứng càng kéo dài thì kết quả điều trị sẽ càng thấp. Tuy nhiên, điều quan trọng là tại thời điểm khởi phát triệu chứng – ví dụ nói khó, nhìn đôi, liệt hay tê bì thì nên gọi cấp cứu sớm để đưa bệnh nhân tới bệnh viện gần nhất.
CDC cũng đã chỉ ra những bệnh nhân tới bệnh viện trong vòng 3 giờ đầu từ khi xuất hiện triệu chứng thì trong vòng 3 tháng sau đó, nguy cơ bị tàn tật sẽ ít hơn so với những bệnh nhân đến muộn.
Hiểu lầm 6: Đột quỵ chỉ xảy ra ở người già
Tuổi là yếu tố nguy cơ quan trọng của đột quỵ. Nguy cơ đột quỵ tăng gấp đôi mỗi 10 năm từ sau 55 tuổi. Tuy nhiên, đột quỵ có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi.
Một nghiên cứu của CDC đã chỉ ra rằng 34% các trường hợp đột quỵ ở bệnh viện trong năm 2009 có độ tuổi dưới 65.
Một báo cáo khác trong năm 2013 chỉ ra: "Xấp xỉ 15% tất cả các trường hợp đột quỵ thiếu máu não xảy ra ở người trẻ và thanh thiếu niên".
Những nhà nghiên cứu cũng lưu ý rằng các yếu tố nguy cơ đột quỵ bao gồm tăng huyết áp, đái tháo đường, béo phì, rối loạn mỡ máu, và sử dụng thuốc lá là những tình trạng phổ biến nhất ở nhóm tuổi này.
Hiểu lầm 7: Tất cả đột quỵ đều có triệu chứng
Không phải tất cả các trường hợp đột quỵ đều có triệu chứng. Một số nghiên cứu cho thấy đột quỵ không có triệu chứng xảy ra phổ biến hơn đột quỵ có triệu chứng.
Một nghiên cứu thực hiện trên hơn 11 triệu người đột quỵ năm 1998 chỉ ra rằng chỉ 770.000 trường hợp có triệu chứng, trong khi đó có tới gần 11 triệu trường hợp là không có triệu chứng.
Bằng chứng của các trường hợp đột quỵ thầm lặng là các đốm trắng (biểu hiện của các sẹo hình thành trong mô não sau khi bị tổn thương do mạch máu bị tắc nghẽn hoặc bị vỡ) xuất hiện trên MRI.
Đột quỵ thầm lặng được xác định khi bệnh nhân nhận kết quả MRI sau khi xuất hiện các triệu chứng như đau đầu, giảm tri giác và chóng mặt.
Mặc dù các trường hợp này xảy ra không có triệu chứng, nhưng cũng nên được điều trị tương tự như là đột quỵ có triệu chứng. Đột quỵ thầm lặng đặt người bệnh vào nguy cơ đột quỵ có triệu chứng trong tương lai, suy giảm nhận thức, và sa sút trí tuệ.
Hiểu lầm 8: Thiếu máu não thoáng qua không rủi ro
"Một số người đang nghĩ rằng thiếu máu não thoáng qua chỉ là một cơn đột quỵ nhỏ và sẽ mang lại nguy cơ thấp"- bác sĩ Ortiz nói- "Quan niệm này cũng không chính xác. Đó không phải là cơn đột quỵ nhỏ mà là một dấu hiệu của một cơn đột quỵ lớn có thể xảy ra. Bất kỳ triệu chứng của đột quỵ cấp, thoáng qua hay dai dẳng đều cần được điều trị cấp cứu và quản lý để tránh một cơn đột quỵ lớn".
Hiểu lầm 9: Đột quỵ luôn là nguyên nhân của liệt
Đột quỵ là nguyên nhân dẫn tới tàn phế lâu dài, nhưng không phải tất cả mọi người bị đột quỵ đều sẽ bị liệt hay yếu chi.
Các nghiên cứu chỉ ra rằng hơn một nửa số bệnh nhân trên 65 tuổi còn sống sau khi trải qua cơn đột quỵ sẽ bị giảm chức năng vận động. Tuy nhiên, ảnh hưởng lâu dài của đột quỵ phụ thuộc vào nhiều yếu tố như là số lượng nhu mô não bị tổn thương và vùng não bị tổn thương. Nếu tổn thương ở bán cầu não trái thì sẽ ảnh hưởng tới bên phải cơ thể và ngược lại.
Nếu đột quỵ xảy ra ở bán cầu não trái, ảnh hưởng có thể bao gồm:
· Liệt nửa người bên phải.
· Lời nói và ngôn ngữ có vấn đề.
· Hành vi chậm chạp và kỳ lạ.
· Mất trí nhớ.
Nếu ảnh hưởng đến bán cầu não phải, liệt cũng có thể xảy ra và tổn thương ở bên trái cơ thể. Một số ảnh hưởng bao gồm:
· Nhìn khó.
· Hành vi nhanh và kỳ lạ.
· Mất trí nhớ.
Hiểu lầm 10 : Đột quỵ hồi phục nhanh
Quá trình hồi phục sau đột quỵ cần có thời gian vài tháng, nếu không muốn nói là vài năm. Tuy nhiên, có rất nhiều trường hợp không hồi phục hoàn toàn. Hiệp hội Đột quỵ Hoa Kỳ cho biết, trong số những người sống sót sau đột quỵ:
· 10% sẽ hồi phục lại hoàn toàn.
· 10% cần sự chăm sóc của điều dưỡng tại nhà hoặc phương tiện hỗ trợ lâu dài khác.
· 25% sẽ hồi phục sự với suy yếu nhẹ ở một vài cơ quan.
· 40% sẽ suy yếu từ mức độ trung bình tới nặng.
Các nghiên cứu chỉ rằng giai đoạn cửa sổ tính từ lúc khởi phát đột quỵ tới 2-3 tháng sau là khoảng thời gian vàng để tập phục hồi chức năng, mang lại cho bệnh nhân nhiều cơ hội hồi phục. Một số trường hợp cũng có thể tự phục hồi trong giai đoạn này.
Ngoài giai đoạn cửa sổ này và mốc 6 tháng, bệnh nhân vẫn có thể phục hồi các chức năng mặc dù khả năng phục hồi chậm hơn đáng kể.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét