Thứ Ba, 2 tháng 7, 2024

Thơ Lý Bạch - Bài 95, 96 Và 97

 


THƠ LÝ BẠCH - BÀI 95, 96 VÀ 97
Thầy Dương Anh Sơn 

THƠ LÝ BẠCH

Bài 95

CỔ PHONG BÀI THỨ MƯỜI CHÍN                                      古風 其其十九

Tây nhạc Liên Hoa san,                                                             西嶽蓮花山,
Điều điều kiến Minh Tinh.                                                         迢迢見明星。
Tố thủ bả phù dung,                                                                   素手把芙蓉,
Hư bộ niếp Thái Thanh.                                                             虛步躡太清。
Nghê thường duệ Quảng đái,                                                     霓裳曳廣帶,
Phiêu phất thăng thiên hành.                                                      飄拂昇天行。
Yêu ngã đăng Vân Đài,                                                              邀我登雲臺,
Cao ấp Vệ Thúc Khanh .                                                            高揖衛叔卿。
Hoảng hoảng dữ chi khứ,                                                           恍恍與之去,
Giá hồng lăng tử minh.                                                              駕鴻凌紫冥。
Phủ thị Lạc Dương xuyên,                                                         俯視洛陽川,
Mang mang tẩu Hồ binh.                                                           茫茫走胡兵。
Lưu huyết đồ dã thảo,                                                                流血涂野草,
Sài lang tận quan anh.                                                                豺狼盡冠纓。
Lý Bạch                                                                                     李白

Dịch nghĩa:

Cổ phong bài thứ mười chín.

Ở phía tây ngọn núi Liên Hoa, - phía trên cao chót vót trông thấy nàng tiên nữ Minh Tinh - với bàn tay trắng trẻo cầm đóa hoa sen - nhẹ bước trên tầng không của cung điện Thái Thanh (c.1-4)

Khúc "nghê thường" dập dìu dải áo dắt (ta) đi bao quanh khắp cung Quảng Hàn, - Các tiên nữ rũ áo nhẹ nhàng bay lên bầu trời cao mà đi. - Rồi mời ta đi lên Vân Đài, - Chắp tay vái cao chào ông tiên Vệ Thúc Khanh. (c.5-8)

Tình cờ (ta) đã cùng (ông) ra đi, - rồi cưỡi con chim hồng bay đến nơi cao xa màu tím. - Trên cao nhìn xuống thấy các con sông ở vùng Lạc Dương với đoàn quân người Hồ ruổi rong mù mịt. (c.9-12)

Máu chảy bôi quét lên cánh đồng cỏ, - tất cả bọn lang sói ác hiểm với dải mũ ngù nón. (c.13-14)

Tạm chuyển lục bát:

CỔ PHONG BÀI THỨ MƯỜI CHÍN.

Núi tây có đỉnh Liên Hoa, 
Minh Tinh đã thấy xa xa kia rồi!
Hoa sen tay giữ trắng ngời!
Thái Thanh nhẹ bước cung trời tầng không. 
Dắt quanh cung Quảng nghê thường,
Lên trời rũ áo nhẹ nhàng mà đi!
Mời ta leo đến Vân Đài,
Thúc Khanh chắp vái chào ngài trên cao! 
Cùng ông bỗng chốc đi nào!
Cưỡi lên trời tím bay cao cánh hồng,
Lạc Dương nhìn xuống những sông,
Binh Hồ rong ruổi mịt mùng nơi nơi! 
Quét bôi đồng cỏ máu trôi!
Sói lang tất cả, mũ ngù đội kia! 

Chú thích:

- Tây Nhạc 西嶽: dãy núi có nhiều ngọn núi to lớn ở phía tây. Tây Nhạc trong bài thơ này là tên của một trong năm ngọn núi danh tiếng và được xem là linh thiêng của người Trung Hoa xếp đặt theo các nhà phong thủy là theo lối ngũ hành từ thời cổ đại do thần Bàn Cổ làm ra bao gồm: Bắc Nhạc 北嶽 với núi Hằng Sơn 恆山, Đông Nhạc với ngọn Thái Sơn 泰山, Nam Nhạc 南嶽 với ngọn Hành Sơn 衡山, Tây Nhạc 西嶽 với ngọn Hoa Sơn 華山 hay Liên Hoa Sơn 蓮花山 và ở trung tâm là Trung Nhạc 中嶽 với ngọn Tung Sơn 嵩山. Tùy theo phái theo đạo Phật hay đạo giáo mà tên gọi có khác nhau..... Lý Bạch, qua thơ của ông như bài Cổ Phong này chẳng hạn, đã cho thấy nhà thơ chịu ảnh hưởng sâu đậm của phái theo đạo giáo thần tiên.
- điều điều 迢迢: xa xa, xa xăm, dài dằng dặc, dài lâu, chót vót, sâu
thẳm....
- Minh Tinh 明星: ngôi sao sáng chói. Ở đây là tên một tiên nữ theo truyền thuyết Trung Hoa tên là Minh Tinh ở trên núi Hoa Sơn 華山 được ghi trong sách xưa tên là Thái Bình Quảng Ký 太平廣記 gồm 500 quyển. Đây là một bộ sách lớn, do nhóm Lý Phương (12 người) đời Tống biên soạn theo lệnh của vua Tống Thái Tông. Tác phẩm tập hợp khoảng 7.000 truyện văn học tuyển lựa ra từ hơn 300 sách văn học được biên soạn vào năm Thái Bình Hưng Quốc năm thứ hai 977, hoàn thành năm 978.
- phù dung 芙蓉: tên một loài hoa có nhiều màu ,cành cây có lá to nở vào mùa hè.Đồng thời cũng là tên khác của hoa sen ( liên hoa 蓮花)
- hư bộ niếp 虛步躡: bước đi nhẹ nhàng ở tầng không (niếp: bước nhẹ nhàng , giẫm chân lên, theo chân, đuổi theo, xen vào...)
- Thái Thanh 太清: cung điện của Thái Thượng Lão quân của đạo giáo trên cõi trời.
- nghê thường 霓裳: xiêm áo của cung nữ trên thiên giới có bảy màu như sắc cầu vồng. Đây cũng là tên điệu múa có tên là "Nghê thường vũ y khúc 霓裳羽衣曲" theo truyền thuyết là do Đường Minh hoàng 唐明皇 tên thật là Lý Long Cơ 李隆基 (tức Đường Huyền tông 唐玄宗 713-756) sáng tác. Nhà vua được đạo sĩ La Công Viễn nhân đêm rằm Trung thu làm phép tiên đưa nhà vua lên chơi cung Quảng Hàn trên cung trăng của Hằng Nga. Ông được nghe điệu múa du dương do những tiên nữ xiêm áo rực rỡ kết bằng lông chim (vũ y) đủ màu tha thướt múa. Nhà vua vốn rành âm nhạc lại mê say điệu múa nên tìm cách ghi nhớ để khi tỉnh giấc mộng trở về trần gian soạn ra điệu múa này rồi bày cho các cung nữ múa trong những ngày trăng rằm để nhớ lại những giây phút đẹp đẽ khi nghe khúc múa trên cung Quảng (sách Dị Văn Lục). Một thuyết khác có lý và thực tế hơn là điệu múa do Tiết độ sứ Trương Kính Thuật ở vùng Tây Lương của người Bà La Môn đem về dâng lên nhà vua và được sửa sang thêm thắt đặt tên mới như trên. Nghĩa khác: áo múa phất phới nhẹ nhàng uyển chuyển.
- duệ 曳: dắt đi, kéo theo, mệt, rung...
- đái(đới) 帶: bao quanh, đi tới, đeo, mang theo...
- phiêu phất 飄拂: gió thổi phe phẩy, phất phơ nhẹ nhàng.
- yêu 邀: mời mọc, cầu mong, mời đón....
- ấp 揖: chắp tay vái chào, hứng lấy, nhường nhau....
- hoảng hoảng 恍恍: bất chợt, tình cờ, bỗng nhiên, phảng phất, mờ mịt...
- giá hồng 駕鴻: cưỡi con chim hồng...
- tử minh 紫冥: màu tím cao xa. Theo truyền thuyết của người Trung Hoa, Lão Tử sau khi gặp Khổng Tử chán người đời bèn đi ra khỏi cửa ải Hàm Cốc tìm nơi ở ẩn. Quan giữ thành là Doãn Hỷ thấy có khí màu tím đến từ phía Đông rồi thấy Lão Tử 老子 cưỡi trâu xanh từ từ đi đến. Ông biết đó là bậc thánh nhân, liền nhờ Lão Tử viết sách chỉ cách tu đạo. Đó là cuốn “Đạo Đức Kinh 道德經” nổi tiếng trong nền văn hóa Trung Hoa đề cập những vấn đề đạo đức cao thâm. Từ đó, khí màu tím mang ý nghĩa cát tường, báo hiệu thánh hiền, bậc đế vương xuất hiện.
- phủ thị 俯視: nhìn từ trên cao xuống bên dưới...
- Lạc Dương 洛陽: nằm phía tây tỉnh Hà Nam, bên bờ sông Lạc Hà. Lạc Hà đây là tên gọi nguyên thủy của "Lạc Dương", nguyên là kinh đô của nhiều triều đại Trung Hoa. Lạc Dương được Triệu Khang Công xây dựng theo lệnh của Chu Công 周公 vào thế kỷ 11 TCN và được đặt tên là Thành Chu 成周. Nó trở thành kinh đô của Đông Chu kể từ năm 770 TCN. Sau này từ năm 25 tới năm 190 SCN, Lạc Dương trở thành kinh đô của nhà Đông Hán, từ Hán Quang Vũ Đế cho tới đầu thời kỳ trị vì của Hán Hiến Đế của lịch sử Trung Hoa.....
- mang mang 茫茫: mênh mông, mù mịt....
- Hồ binh 胡兵: chỉ chung các bộ tộc ở phía bắc, phía tây của Trung Hoa như Thổ Phồn, Đột Quyết, Hung Nô, Khiết Đan... v.v... thường đem quân vào trung nguyên đánh phá gây ra sự bất ổn triền miên cho các nước thời Chiến Quốc và sau này như nhà Tần, nhà Hán, nhà Đường, nhà Tống... v.v... của Trung Hoa.
- sài lang 豺狼: chó sói, chỉ sự ác độc, hiểm trá của các bộ tộc người Hồ thường đem quân tiến đánh Trung Hoa (và ngược lại, người Trung Hoa đi xâm lược các nước nhỏ hơn cũng bị gọi như thế!)
- quan anh 冠纓: mũ, nón che trùm đầu có dải mũ hay tua ngù, dây buộc...

Bài 96

CỔ PHONG KỲ TỨ                                                                 古風 其四

Phượng phi cửu thiên nhận,                                                       鳳飛九千仞,
Ngũ chương bị thải trân.                                                            五章備彩珍。
Hàm thư thả hư quy,                                                                  銜書且虛歸,
Không nhập Chu dữ Tần.                                                           空入周與秦。
Hoành tuyệt lịch tứ hải,                                                             橫絕歷四海,
Sở cư vị đắc lân.                                                                        所居未得鄰。
Ngô doanh tử hà xa,                                                                   吾營紫何車,
Thiên tái lạc phong trần.                                                            千載落風塵。
Dược vật bí hải nhạc,                                                                 藥物秘海岳,
Thải duyên thanh khê tân.                                                          採鉛青溪濱。
Thì đăng đại lâu san,                                                                  時登大樓山,
Cử thủ vọng tiên chân.                                                               舉首望仙真。
Vũ giá diệt khứ ảnh,                                                                   羽駕滅去影,
Tiêu xa tuyệt hồi luân.                                                               飆車絕回輪。
Thượng khủng đan dịch trì,                                                       尚恐丹液遲,
Chí nguyện bất cập thân.                                                           志願不及申。
Đồ sương kính trung phát,                                                         徒霜鏡中發.
Tu bỉ hạc thượng nhân.                                                              羞彼鶴上人。
Đào lý hà xử khai,                                                                      桃李何處開,
Thử hoa phi ngã xuân.                                                               此花非我春。
Duy ứng thanh đô cảnh,                                                             唯應清都境,
Trường dữ Hàn chúng thân.                                                       長與韓眾親。
Lý Bạch                                                                                     李白

Dịch nghĩa"

Cổ phong bài thứ tư.

Con chim phượng bay chín ngàn thước, - với năm màu sắc đầy đủ tỏa ánh sáng rực rỡ quý hiếm! - Những việc ghi chép theo nó không có thực, - Khi đi vào bầu trời của nhà Chu hay đất Tần. (c. 1-4)

Vượt qua hết chiều ngang của bốn vùng biển, - chỗ ở (của chim phượng) vẫn chưa đến gần được! - Vì sao ta lại mê đắm màu tím của chiếc xe vua, - Nên ngàn năm phải bị bỏ lại chốn phong trần?! (c. 5-8)

Đi tìm kiếm cây thuốc còn ẩn khuất nơi biển khơi hay núi cao. - Rồi chọn hái thuốc phải men theo các bờ suối xanh. - Giờ thì lên lâu đài trên núi cao lớn, - ngẩng đầu ngóng nhìn những vị tiên đích thực! (c. 9-12).

Hình ảnh những chòm lông vũ cột vào chiếc xe đã mất tăm. - Xe chạy như bay làm sự chuyển động của bánh xe (quay nhanh) như dứt hết! - Nỗi sợ hãi e ngại vẫn còn với nước dịch lỏng (chảy ra) của thuốc bào chế; - Tấm thân chẳng theo kịp những ước vọng (chất chứa) trong lòng (c. 13-16).

Chỉ có hơi sương trong trẻo hiện ra ở khoảng lưng chừng. - Nỗi hổ thẹn của chim hạc này khi con người (chứ không phải người thành tiên) cưỡi bên trên! - Hoa đào, hoa mận sao lại chăm sóc cho nó nở ra làm gì! Loài hoa này không phải là (biểu tượng) mùa xuân của ta! (c. 17-20)

Chỉ có sự trong lành đơn giản của cảnh sắc nơi chốn đô hội là đáp ứng được. - Về lâu dài sẽ cùng với đông đảo người nước Hàn là thân thiết thôi! (c. 21-22)

Tạm chuyển lục bát:

CỔ PHONG BÀI THỨ TƯ

Chín ngàn thước, phượng đã bay,
Năm màu rực rỡ đủ đầy hiếm sao!
Theo lời sách chép: thực đâu!
Bầu trời rộng lớn vào Chu cùng Tần.
Vượt qua bốn biển chiều ngang,
Vẫn chưa đến được gần nơi ở rồi!
Sao mê màu tím xe thôi!?
Phong trần ở lại tơi bời ngàn năm! 
Thuốc tìm núi biển khuất tăm,
Suối xanh theo hái bờ gần kề bên.
Lầu cao ở núi leo lên,
Ngẩng đầu ngóng thấy ông tiên đúng là! 
Mất hình lông vũ treo xe,
Chạy bay, như dứt bánh xe quay vòng!
Chậm ra nước thuốc: ngại ngùng!
Thân theo chẳng kịp ước mong nữa là! 
Chỉ sương trong, hiện la đà,
Trên mình thẹn chở người ta hạc này!
Mận đào chăm nở chi đây?
Hoa này chẳng phải xuân gì của ta! 
Chốn đông: thanh cảnh mới là!
Dài lâu cùng đám Hàn kia thân tình. 

Chú thích:

- nhận 仞: thước đo đạc thời nhà Chu bên Trung Hoa, cứ 8 thước bằng 1 nhận (khoảng 6m48 ngày nay) tức 1/8 trượng.
- ngũ chương 五章: năm màu sắc lộng lẫy. (chương: văn vẻ, màu sắc, sách, điều lệ, mạch lạc, con dấu...)
- bị 備: đầy đủ, chuẩn bị, chu đáo, hoàn toàn, đề phòng.. ..
- thải trân 彩珍: ánh sáng rực rỡ quí hiếm..
- hàm thư 銜書: những điều ghi chép bên trong...., chữ viết ghi bên trong.... - thả 且: vả chăng, hơn nữa, vả lại, vừa, cứ, hãy thế, gần tới....
- hư quy 虛歸: thuộc về những điều không thực, không đúng...
(quy: trở về, theo về, gom góp lại, kết lại, tóm lại, thuộc về....)
- Chu, Tần 周, 秦: do sự tàn bạo của vua Trụ nhà Thương bên Trung Hoa, Cơ Phát 姬發 đã huy động các chư hầu nổi dậy diệt nhà Thươngkhiến Trụ vương phải nhảy lửa tự thiêu. Cơ Phát lên ngôi là người đầu tiên xưng thiên tử (thay mặt ông trời cai trị thiên hạ) hiệu là Chu Vũ Vương 周武王 (1046-1043 TCN) đóng đô ở đất Phong tức Trường An, Thiểm Tây, T. H (1046-771 TCN). Đến thời Đông Chu chuyển đô qua Lạc Dương (Hà Nam, T. H) kéo dài từ đời Chu Bình vương đến Chu An vương. Nhà Chu càng ngày càng yếu thế trước các chư hầu và rồi bị nhà Tần tiêu diệt (771-251 TCN). Triều đại nhà Chu 周朝 từ khi Chu Vũ vương lên ngôi đến 771 TCN là thời kỳ tương đốihòa bình, ổn định, nhưng từ năm 771-403 TCN là thời Xuân Thu và từ 401-251 TCN là thời đại Chiến Quốc là hai thời kỳ nhiều biến loạn với sự tranh giành đất đai, quyền hành gây biết bao tang thương cho dân chúng Trung Hoa.
- hoành tuyệt 橫絕: hết cả chiều ngang...
- lịch 歷: trải qua, vượt qua, đã qua, rành rọt, khắp, suốt hết, thừa ra....
- doanh 營: mê hoặc,nơi đóng quân, lo toan, mưu tính, xếp đặt, cứu trợ, xây dựng... Trong câu 7 này, có lẽ Lý Bạch hồi tưởng lại giai đoạn được Đường Minh hoàng, triều Đường của Trung Hoa ân sủng, thường được vua mời vào cung hay theo xe vua đi đây đó. Ông nhìn lại mình giai đoạn đó là người bị mê hoặc bởi chốn cung đình mà  màu tím là biểu tượng (xem các CT bên trên). Câu 8 tiếp theo cho thấy rõ hơn điều đó!
- thiên tái (tải) 千載: một ngàn năm...
- vật 物: vật chất, con vật, đồ vật, chọn lựa, tìm kiếm.... 
- bí 秘: bí mật, che giấu, thần bí, khuất lấp....
- thải (thái) duyên 採鉛: đi nhặt hái men theo các con suối hay triền núi....
- tiên chân 仙真: những vị tiên đạt đạo thật sự, có khi gọi những người đạt đạo là chân nhân....
- vũ giá 羽駕: cột các chòm lông vũ vào chiếc xe. Lông vũ treo trên ngọn cờ hay trên xe để biểu thị uy quyền hay đẳng cấp của người sử dụng.... 
- tiêu xa 飆車: xe chạy như bay, phóng xe rất nhanh. Câu 14 này chỉ xe chạy rất nhanh, bánh xe quay theo nhanh đến nỗi nhìn như thấy không quay bánh!
- thượng khủng 尚恐: vẫn còn e sợ, hãy còn khiếp hãi.... 
- đan dịch trì 丹液遲: đan: màu son, màu đỏ hồng, thuốc được bào chế.... Nước thuốc bào chế chảy ra chậm rãi, từ từ....
- chí nguyện 志願: ước vọng hay mong muốn trong lòng, tinh thần tự
nguyện theo lý tưởng....
- thân 申: giờ thân (3-5 giờ chiều), bày tỏ, trình bày, thuật lại, nói ra, lại nữa....
- đồ sương 徒霜 : chỉ có hơi sương tỏa.
(đồ: chỉ có, đi bộ, đường lối, trống, không có gì, đồ đệ, tội đồ, uổng công....).
- kính 鏡: gương soi, sáng sủa, sạch trong, soi chiếu...
- phát 發: hiện ra, tìm ra, đào lên, bới ra, bắt đầu, dấy lên, nổi lên, lên
đường, sinh ra....
- tu bỉ hạc 羞彼鶴: nỗi hổ thẹn kia của con chim hạc (bỉ 彼: kia, đối lại là thử此: này...) (tu: sự hổ thẹn, xấu hổ, nhút nhát, làm nhục, thẹn thùng, ngại ngùng, dùng thức ăn...)
- xử 處: chăm sóc, coi ngó, đối xử, giải quyết, nơi, chỗ, ở ẩn (xuất xử : ra làm quan hay ở ẩn).
- Hàn 韓: vào thời Chiến quốc 戰國 (khoảng 475-221 TCN), các quan đại phu nước Tấn 晉 như họ Hàn 韓, họ Triệu 趙, họ Ngụy 魏 chia nhau nước Tấn thành ba nước Hàn, Triệu, Ngụy thuộc vùng Sơn Tây bây giờ. Về sau các nước này đều bị nhà Tần 秦 thôn tính.

Bài 97

CỔ PHONG KỲ NGŨ                                                             古風 其 五

Thái Bạch hà thương thương,                                                    太白何蒼蒼,
Tinh thần thượng sâm liệt.                                                         星辰上森列。
Khứ thiên tam bách lí,                                                               去天三百里,
Mạc nhĩ dữ thế tuyệt.                                                                 邈爾與世絕。
Trung hữu lục phát ông,                                                             中有綠發翁,
Phi vân ngọa tùng tuyết.                                                            披雲臥松雪。
Bất tiếu diệc bất ngữ,                                                                 不笑亦不語,
Minh tê tại nham huyệt.                                                             冥棲在巖穴。
Ngã lai phùng chân nhân,                                                          我來逢真人,
Trường quỵ vấn bảo quyết.                                                        長跪問寶訣。
Xán nhiên khải ngọc xỉ,                                                             粲然啟玉齒,
Thụ dĩ luyện dược thuyết.                                                          授以煉藥說。
Minh cốt truyền kì ngữ,                                                             銘骨傳其語,
Tủng thân dĩ điện diệt.                                                               竦身已電滅。
Ngưỡng vọng bất khả cập,                                                         仰望不可及,
Thương nhiên ngũ tình nhiệt.                                                    蒼然五情熱。
Ngô tương doanh đan sa,                                                           吾將營丹砂,
Vĩnh dữ thế nhân biệt.                                                               永與世人別。
Lý Bạch                                                                                     李白

Dịch nghĩa:

Cổ phong bài thứ năm.

Cớ sao ngôi sao Thái Bạch là màu xanh lục như thế ! - Các vì tinh tú
trên cao bày ra dày dặc - đi qua trên bầu trời ba trăm dặm xa thăm thẳm như thế, - hướng về cõi đời vô cùng xa tít! (c. 1-4)

Ở giữa (các chòm sao) hiện ra (hình ảnh ) cụ ông - vén đám mây ra nằm nơi cây tùng có hoa tuyết trắng. - Cụ ông không cười cũng chẳng nói năng, - nghỉ ngơi nơi hang núi thâm sâu! (c. 5-8)

Ta đến gặp bậc đắc đạo, - quỳ gối rất lâu để xin hỏi về phương pháp
(tu đạo) quý báu. - Sự tươi sáng rỡ ràng, đúng như thế, mở ra (như ngọc báu) từ bậc tuổi tác tôn quý, - Ông đã truyền dạy cùng giải thích cách luyện thuốc (cho ta) (c. 9-12).

Ta đã ghi nhớ vào xương cốt lời dạy bảo của người ấy. - Bậc đắc đạo
cất thân lên như điện chớp nhoáng đi mất! - Ta ngửa trông lên không thể kịp rồi! - Nơi bầu trời xanh như thế với năm thứ tình cảm nồng ấm! (c. 13-16).

Ta sắp sửa tính chuyện làm thuốc. - Mãi mãi cách biệt với người đời!
(c. 17-18).

Tạm chuyển lục bát:

CỔ PHONG BÀI THỨ NĂM.

Biếc xanh Thái Bạch vì sao?
Sắp bày tinh tú trên cao đông ngời!
Qua ba trăm dặm bầu trời,
Hướng về cõi thế xa xôi vô cùng!
Giữa màu xanh có cụ ông,
Vén mây nằm cội cây tùng tuyết giăng!
Không cười cũng chẳng nói năng!
Hang sâu ở chốn non ngàn nghỉ ngơi! 
Đến người đắc đạo gặp thôi,
Quỳ lâu! Phép quý xin người bảo ban.
Mở ra tuổi báu rỡ ràng,
Giảng truyền, dạy luyện thuốc thang theo cùng. 
Khắc sâu lời dạy vào xương!
Truyền xong chớp nhoáng cất thân đi rồi.
Ngẩng trông không thể kịp người
Năm tình ấm áp, bầu trời thắm xanh. 
Ta toan tính việc luyện đan,
Cách xa mãi mãi thế gian cõi người! 

Chú thích:

- Thái bạch 太白: tức Kim tinh 金星, một ngôi sao nóng nhất trong hệ mặt trời tự quay quanh nó. Người Hoa xưa gọi nó là Thái Bạch Kim Tinh 太白金星.
- thương thương 蒼蒼: xanh thăm thẳm, xanh như có chiều sâu xanh lục thắm, tươi tốt, phồn thịnh, xanh tốt.... .
- tinh thần 星辰: chỉ các vì sao hay tinh tú. VD: sao Bắc Cực, tức “Bắc Thần” 北辰.
- sâm liệt 森列: bày ra la liệt, sắp xếp dày dặc và rất nhiều...
- mạc nhĩ 邈爾: nó (nhĩ) xa xăm vời vợi, nó xa thăm thẳm....
- dữ 與: hướng về, cùng, với, cho, và....
- tuyệt 絕: hết, dứt tận, tiêu diệt, vô cùng, vô tận, cao xa....
- phát ông 發翁: hiện ra ông lão, xuất hiện cụ ông.... (phát: xuất hiện, lộ ra, bày ra, bắt đầu.....)
- phi vân 披雲: vén mây, xẻ mây, mở mây....
- minh tê 冥棲: nghỉ ngơi chốn xa xăm sâu thẳm, nghỉ ngơi nơi chốn hoang vắng tĩnh lặng...
- nham huyệt 巖穴: hang động trong núi đá. Nghĩa tương tự như nham động 巖洞.
- trường quỵ 長跪: quỵ: quỳ gối, ngã quỵ xuống, quỳ lạy, chân cua... Đây chỉ việc quỳ gối khá lâu để cầu xin chỉ giáo một sự việc nào đó...
- bảo quyết 寶訣: lời chỉ dạy, phương pháp, phép tắc, pháp thuật, lời nói gọn gàng quý báu...
- xán nhiên 粲然: sự xán lạn như thế, sự tươi đẹp như thế, rỡ ràng như vậy....
- khải 啟: mở ra, cho biết, giải bày, bắt đầu....
- xỉ 齒: tuổi tác, răng, hàm răng...
- thụ 授: trao truyền, dạy học, trao cho, dạy bảo....
- dược thuyết 藥說 : học thuyết về thuốc, giảng giải về lĩnh vực thuốc
men, giới thiệu thuốc....
- minh cốt 銘骨: ghi khắc vào xương tủy, khắc sâu vào trong tâm khảm điều được chỉ dạy....
- truyền 傳 (truyện): truyền thụ (thọ), dạy bảo, chuyển giao, kể truyện, truyền lệnh, dẫn tiếp.... 
- kỳ ngữ 其語: lời nói, lời dạy bảo của người ấy.... 
- tủng thân 竦身: cất thân bay lên, đứng thẳng người lên... 
- điện tuyệt 電滅: chớp nhanh như điện rổi tan đi mất!
- tương 將: sẽ, sắp sửa, có thể, giúp đỡ, lại vừa... v.v... (đặt giữa câu);
theo bên, theo lên, tiến lên... v.v... (đặt cuối câu)...
- doanh 營: xem CT bài 96 bên trên

(Lần đến: THƠ LÝ BẠCH bài 98, 99 và 100)

Dương Anh Sơn


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét